QPTD -Chủ Nhật, 24/01/2016, 16:44 (GMT+7)
Những nội dung mới về tăng cường quốc phòng và an ninh, bảo vệ Tổ quốc trong Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XII của Đảng

Tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của cách mạng Việt Nam. Đó là quan điểm nhất quán, thể hiện rõ trong các nghị quyết của Đảng. Trong Dự thảo Báo cáo Chính trị trình Đại hội XII, phần về quốc phòng, an ninh đã đề cập nhiều vấn đề mới, thể hiện tư duy chiến lược nhạy bén, sắc sảo của Đảng đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Trên cơ sở đánh giá tổng quát kết quả thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc trong 5 năm qua; đánh giá tình hình quốc tế, khu vực và trong nước, nhất là những nguy cơ, thách thức đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, Dự thảo Báo cáo Chính trị trình Đại hội XII của Đảng đã đề ra phương hướng tăng cường quốc phòng, an ninh cho 5 năm tới. Trong đó, cùng với kế thừa các quan điểm, mục tiêu bảo vệ Tổ quốc của các kỳ đại hội trước, Dự thảo lần này đã xác định nhiều giải pháp mới, đồng bộ, sát thực tiễn bảo vệ Tổ quốc trong những năm tới và được biểu hiện tập trung nhất ở một số nội dung chủ yếu sau:

Một là, kết hợp chặt chẽ kinh tế, văn hoá, xã hội với quốc phòng và an ninh. Đây là sự phát triển tư duy về kết hợp giữa quốc phòng, an ninh với các mặt, lĩnh vực của đời sống xã hội, nhằm tạo sức mạnh tổng hợp để bảo vệ Tổ quốc trong tình mới. Điều đó được thể hiện rõ khi trước đây, trong nghị quyết các kỳ đại hội, Đảng ta mới chỉ xác định mối quan hệ kết hợp giữa kinh tế với quốc phòng, an ninh; quốc phòng, an ninh với kinh tế và đối ngoại thì Dự thảo lần này đã coi văn hóa, xã hội là một trong những thành tố không thể thiếu của sự kết hợp đó. Nói cách khác, vấn đề văn hóa, xã hội đã, đang có tác động không nhỏ tới quốc phòng, an ninh trên bình diện tích cực, tiêu cực và thực tiễn cũng cho thấy, ngày càng có nhiều tình huống về quốc phòng, an ninh được phát sinh từ yếu tố văn hóa, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, biên giới và trong một bộ phận giới trẻ, v.v. Do đó, việc Dự thảo xác định kết hợp chặt chẽ văn hóa, xã hội với quốc phòng, an ninh thể hiện sự phát triển sáng tạo trong tư duy nhận thức về bảo vệ Tổ quốc của Đảng, nhằm hướng vào giải quyết những vấn đề đặt ra từ thực tiễn. Điều này cũng phù hợp với quan điểm của Đảng khi khẳng định sức mạnh bảo vệ Tổ quốc là sự hợp thành của nhiều nhân tố, cả lực lượng và thế trận, cả sức mạnh vật chất và sức mạnh tinh thần, trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, cả sức mạnh trong nước và sức mạnh quốc tế, v.v. Không chỉ khẳng định mối quan hệ tất yếu giữa văn hóa, xã hội với quốc phòng, an ninh, Dự thảo còn chỉ rõ, sự kết hợp ấy cần được thực hiện ngay trong từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, đề án phát triển gắn với 6 vùng kinh tế - xã hội và 4 vùng kinh tế trọng điểm đã xác định. Trong đó, tập trung vào các vùng chiến lược trọng yếu về quốc phòng và an ninh như: Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, phía Tây các tỉnh miền Trung và hướng chiến lược biên giới, biển, đảo. Đây là định hướng rất quan trọng để các cấp, ngành, địa phương triển khai các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, dự án kinh tế, văn hóa, xã hội trên các khu vực, địa bàn; đồng thời, khắc phục triệt để những thiếu sót, sơ hở trong kết hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh cũng như quốc phòng, an ninh với kinh tế và văn hóa, xã hội. Đương nhiên, để thực hiện tốt nội dung này trong nhiệm kỳ tới, cần phải triển khai các giải pháp đồng bộ. Vì thế, cùng với xây dựng “thế trận lòng dân”, tích cực phát huy nội lực, tăng cường hợp tác quốc tế, Dự thảo còn chỉ ra phương hướng nghiên cứu bổ sung, hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế, chính sách kết hợp phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội với xây dựng, huy động, sử dụng tiềm lực, củng cố thế trận quốc phòng và an ninh trên cơ sở kiện toàn, tinh giản biên chế, tổ chức, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị và các tổ chức, đoàn thể các cấp; hạn chế sự chồng chéo chức năng, nhiệm vụ, xác định rõ trách nhiệm tổ chức người đứng đầu trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh.

Hai là, có kế sách ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; chủ động phòng ngừa, phát hiện sớm và triệt tiêu các nhân tố bất lợi đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Đây là phát triển mới về nhiệm vụ của quốc phòng, an ninh và cũng là giải pháp cụ thể được Dự thảo đề cập, nhằm chủ động ngăn ngừa, đẩy lùi nguy cơ xung đột vũ trang và các hình thái chiến tranh xâm lược; làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch và các thách thức an ninh phi truyền thống, bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong mọi tình huống. Đồng thời, đó còn là sự kế thừa, vận dụng sáng tạo bài học kinh nghiệm trong lịch sử: “giữ nước từ lúc chưa nguy” và kế thừa, phát triển tư tưởng về bảo vệ Tổ quốc từ xa đã được đề cập qua các kỳ đại hội Đảng, nhất là Nghị quyết Trung ương 8 khóa XI về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới". Để bảo vệ Tổ quốc từ xa, đòi hỏi chúng ta cần triển khai đồng bộ nhiều biện pháp, trọng tâm là nắm chắc âm mưu, thủ đoạn, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch cả bên trong và bên ngoài; chủ động dự báo đúng các nguy cơ, thách thức, những tình huống phức tạp có thể xảy ra, đặc biệt là trên vùng biển, đảo, biên giới và địa bàn nhạy cảm, phức tạp về quốc phòng, an ninh. Trên cơ sở đó, chủ động nghiên cứu, xây dựng và sớm ban hành Chiến lược Quốc phòng, Chiến lược Quân sự, hoàn thiện Chiến lược An ninh quốc gia, làm cơ sở xây dựng các chiến lược chuyên ngành, đề án, kế hoạch bảo đảm quốc phòng, an ninh ở những vùng chiến lược trọng điểm. Tích cực, chủ động chuẩn bị lực lượng đủ mạnh và kế hoạch, phương án bảo đảm quốc phòng, an ninh trên tất cả các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, tài chính, văn hóa, xã hội, đối ngoại, thông tin, môi trường..., chủ động đấu tranh không để bị động, bất ngờ. Cùng với đó, chúng ta cần kịp thời phát hiện, ngăn chặn làm thất bại ý đồ móc nối, xâm nhập, phá hoại nội bộ, vô hiệu hóa các tổ chức phản động trong nước, ngăn chặn các nguy cơ nội sinh: “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, làm thất bại âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Ngoài ra, Dự thảo tiếp tục hướng vào củng cố vững chắc các quan hệ đối ngoại; tăng cường khả năng phòng thủ trên từng hướng chiến lược và phạm vi cả nước; gắn kết chặt chẽ thế trận quốc phòng toàn dân với thế trận an ninh nhân dân và thế đấu tranh ngoại giao, dựa trên nguyên tắc: “đặt lợi ích quốc gia dân tộc lên trên hết; kiên định mục tiêu độc lập, tự chủ, đồng thời chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, trên cơ sở hợp tác, bình đẳng cùng có lợi, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại”. Đó là những định hướng quan trọng, sát với tình hình thực tiễn, nhằm bảo vệ Tổ quốc sớm, từ xa, góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Ba là, xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, ưu tiên hiện đại hoá một số quân chủng, binh chủng, lực lượng quan trọng.

Vấn đề xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại đã được Đảng ta xác định trong các kỳ đại hội Đảng gần đây. Tuy nhiên, đó mới là phương hướng chung có tính dài hạn, còn nhiệm vụ xây dựng từng lực lượng, nhất là lực lượng tiến thẳng lên hiện đại như thế nào cũng mới chỉ là bước đầu và phải căn cứ vào tình hình thực tiễn, điều kiện đất nước. Dự thảo Báo cáo Chính trị lần này đã vạch rõ phương hướng “ưu tiên hiện đại hoá một số quân chủng, binh chủng, lực lượng quan trọng”; nhấn mạnh xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân “vững mạnh về chính trị”, v.v. Đây là sự kế thừa, phát triển đường lối xây dựng lực lượng vũ trang của Đảng trong tình hình mới. Theo đó, việc xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh toàn diện, phải lấy xây dựng vững mạnh về chính trị làm cơ sở, bảo đảm cho lực lượng vũ trang luôn tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, gắn bó máu thịt với nhân dân; không mơ hồ, chủ quan, mất cảnh giác; tích cực đấu tranh làm thất bại ý đồ “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang của các thế lực thù địch. Để đạt được điều đó, Dự thảo tập trung nhấn mạnh việc tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với lực lượng vũ trang; không ngừng nâng cao trình độ giác ngộ, sự vững vàng về chính trị tư tưởng; nâng cao sức chiến đấu, hiệu quả công tác đảng, công tác chính trị; làm tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ, v.v. Đối với Quân đội nhân dân, cần tiếp tục điều chỉnh cơ cấu tổ chức, biên chế, trang bị theo hướng “tinh, gọn, mạnh”, hạn chế chồng chéo chức năng, nhiệm vụ; coi trọng tính hợp lý, đồng bộ, cân đối giữa chủ lực và địa phương, giữa các quân chủng, binh chủng, giữa thường trực và dự bị, chiến đấu và phục vụ..., nhằm đáp ứng yêu cầu tác chiến trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc. Trong hiện đại hóa các binh chủng, quân chủng, lực lượng đã được xác định, cần coi trọng nâng cao năng lực tác chiến tầm cao, tầm xa, khả năng kiểm soát vùng trời, biển đảo, tác chiến đêm, tác chiến mạng, v.v. Đồng thời, đổi mới giáo dục, huấn luyện lực lượng thường trực, lực lượng dự bị động viên và dân quân tự vệ, không ngừng nâng cao chất lượng chính trị, trình độ kỹ thuật, chiến thuật, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cả trong thời bình và thời chiến. Triển khai các biện pháp tổ chức, xây dựng để công nghiệp quốc phòng thực sự là một bộ phận công nghiệp quốc gia; đồng thời, tích cực đổi mới nâng cao năng lực công nghiệp quốc phòng theo hướng lưỡng dụng, bảo đảm sửa chữa, cải tiến, sản xuất, nâng cấp vũ khí, trang bị, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Đại tá, TS. NGUYỄN ĐỒNG THỤY

Ý kiến bạn đọc (0)