Thứ Sáu, 22/11/2024, 19:49 (GMT+7)
Tổng kết thực tiễn và kinh nghiệm Thực tiễn và kinh nghiệm
Tổng Công ty Đông Bắc (Bộ Quốc phòng) là doanh nghiệp kinh tế - quốc phòng, có ngành nghề sản xuất, kinh doanh chính là khai thác, chế biến, kinh doanh than, góp phần bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, bên cạnh những thuận lợi là cơ bản, Tổng Công ty gặp không ít khó khăn, thách thức. Đó là, các khu mỏ do Tổng Công ty quản lý, khai thác có trữ lượng nhỏ, nằm phân tán, địa chất phức tạp, chất lượng, phẩm cấp than ở mức thấp. Sau nhiều năm khai thác, hoạt động của các mỏ phải xuống tầng sâu, khai trường hẹp, hệ số bóc đất đá cao, cung độ vận chuyển và cao trình đổ thải lớn. Không những thế, các mỏ hầm lò khai thác dưới các bãi thải, khu vực khai thác cũ, giáp ranh với các mỏ của Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam, nên tiềm ẩn nhiều nguy cơ mất an toàn, như: bục nước, cháy nổ khí metan, cháy mỏ, sập, đổ lò, v.v. Nhận thức rõ thực trạng đó, những năm qua, Đảng ủy, Ban Tổng Giám đốc Tổng Công ty đã lãnh đạo, chỉ đạo triển khai đồng bộ các giải pháp nhằm tối ưu hóa quy trình sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, thu nhập cho người lao động, bảo đảm an toàn, vệ sinh môi trường; trong đó, đổi mới, ứng dụng công nghệ, phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật vào sản xuất là khâu đột phá, giải pháp quan trọng hàng đầu.
Để giải pháp này thực sự đi vào cuộc sống, trước hết, Tổng Công ty quán triệt sâu sắc các nghị quyết, chỉ thị, văn bản quy phạm pháp luật của Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng về khoa học và công nghệ; trên cơ sở đó, xây dựng, ban hành Quy chế quản lý hoạt động khoa học và công nghệ, có cơ chế, chính sách đãi ngộ và quan tâm đầu tư kinh phí cho công tác nghiên cứu khoa học, ứng dụng công nghệ, phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật vào các khâu, các bước của quá trình khai thác, chế biến than. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để các công ty, đơn vị thành viên chủ động, linh hoạt trong tổ chức sản xuất; tăng cường phối hợp với các chuyên gia, đơn vị tư vấn nghiên cứu, đổi mới dây chuyền công nghệ, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật mới. Đồng thời, khuyến khích đội ngũ cán bộ, kỹ sư, thợ tay nghề cao tích cực nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ, phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật vào đồng bộ hóa dây chuyền sản xuất, tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm, phòng ngừa rủi ro, tai nạn, thân thiện với môi trường. Để đạt hiệu quả cao, Tổng Công ty chú trọng xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao, quan tâm quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí sử dụng con người theo hiệu quả công việc, phát huy tốt khả năng, sở trường với phương châm “việc chọn người”, phân công đúng người, đúng việc. Hằng năm, Tổng Công ty yêu cầu các cơ quan, đơn vị đăng ký đề tài nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ, sáng kiến cải tiến kỹ thuật; từ đó, xem xét phê duyệt, đầu tư kinh phí được trích từ lợi nhuận sản xuất, kinh doanh để triển khai thực hiện. Với cách làm này, những năm qua, Tổng Công ty đã nghiên cứu, phối hợp nghiên cứu, ứng dụng thành công hàng chục tiến bộ khoa học, công nghệ, sáng kiến cải tiến kỹ thuật1 trên các lĩnh vực, như: cơ giới hóa, tự động hóa, công nghệ khai thác, đào chống lò, thông gió, thoát nước, phòng ngừa bục nước, vận tải, gia công chế tạo, cải tiến máy móc, thiết bị,… vào hợp lý hóa sản xuất, mang lại hiệu quả kinh tế cao, có ý nghĩa lớn về xã hội, cải thiện môi trường, điều kiện làm việc, khả năng bảo đảm an toàn cho người lao động, góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh, thực hiện tốt mục tiêu: “đơn vị ít người, năng suất cao, trả lương cao”.
Xuất phát từ yêu cầu, đặc thù khai thác than ở từng loại mỏ khác nhau, nên Tổng Công ty chủ trương nghiên cứu, lựa chọn, triển khai áp dụng công nghệ, tiến hành cơ giới hóa từng phần phù hợp với điều kiện địa chất, coi đây là “đòn bẩy” trong quá trình khai thác than. Theo đó, với khai thác mỏ lộ thiên, Tổng Công ty nghiên cứu, ứng dụng các giải pháp, trình tự khai thác, vận chuyển, đổ thải hợp lý cho từng khu vực của các mỏ, nhằm phát huy vai trò, tính năng của các trang, thiết bị trong sản xuất, như: bố trí các tuyến hào vận tải bảo đảm không gây ách tắc sản xuất, tăng năng suất vận chuyển (tại mỏ Đông Đá Mài, Tây Khe Sim); bố trí trình tự khai thác các diện sản xuất hợp lý, bảo đảm sản lượng than, giảm cung độ vận chuyển đất tại các mỏ lộ thiên (mỏ Đông Đá Mài, Bình Giã, Tây Khe Sim và Nam Tràng Bạch). Cùng với đó, để hạn chế xử lý bùn thải tại các moong khai thác, Tổng Công ty chỉ đạo các đơn vị thực hiện tốt việc tạo nhiều moong tạm thứ cấp trên các diện khai thác, tuyến hào vận tải, tuyến tầng nhằm phân luồng thoát nước, lắng đọng bùn thải (mỏ Tây Khe Sim, Đông Đá Mài). Đặc biệt, do đặc điểm địa chất các mỏ tại khu vực này rất phức tạp, thuộc vùng tụ thủy, lượng nước ẩn chứa phía dưới địa tầng lớn, nguy cơ bục nước có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Khắc phục vấn đề này, Tổng Công ty đã áp dụng công nghệ bơm nước trong lỗ khoan, hạn chế tối đa việc sử dụng thuốc nổ chịu nước, vừa bảo đảm an toàn, vừa tiết kiệm, giảm chi phí sản xuất hàng chục tỉ đồng/năm.
Khai thác hầm lò là công việc vô cùng nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm. Chính vì vậy, Tổng Công ty triển khai hàng loạt các ứng dụng, các giải pháp kỹ thuật, công nghệ đào lò, khai thác tiên tiến, hiện đại vào sản xuất, như: áp dụng hệ thống lò chợ xiên chéo tại các vỉa có độ dốc lớn (vỉa 4, mỏ Khe Chuối; vỉa 7, mỏ Tây Nam Khe Tam); sử dụng sơ đồ công nghệ lò chợ 1.0.0 và 1.0.1 vào khai thác, không để lại trụ bảo vệ (tại Công ty Khe Sim, 45, 91); áp dụng công nghệ giàn chống mềm ZRY và giàn mềm cơ khí trong khai thác lò chợ xiên chéo thay thế cho công nghệ khấu chống thủy lực đơn, lò dọc vỉa phân tầng, bảo đảm an toàn trong khai thác, tăng khả năng thu hồi than nóc, than trụ, tăng năng suất lao động, giảm mét lò đào, hạ giá thành sản phẩm2. Bên cạnh đó, Tổng Công ty đưa máy khấu một tang vào khai thác lò chợ có chiều dày vỉa mỏng tại vỉa 10T (Công ty Khe Sim) giúp tăng năng suất lao động hơn 1,9 lần so với khấu thủ công, bảo đảm thu hồi tối đa tài nguyên, chất lượng than; triển khai áp dụng thử nghiệm công nghệ khai thác lò chợ bán cơ giới hóa sử dụng máy khấu một tang MG125/150-WD chống giữ lò chợ GTL1600/16/24MK tại mỏ Bắc Quảng Lợi (Công ty 790) đạt kết quả tốt.
Thực hiện phương châm: “an toàn thứ nhất, sản xuất thứ hai”, Tổng Công ty đã có nhiều chủ trương, giải pháp chỉ đạo công tác bảo đảm an toàn, vệ sinh lao động. Các đơn vị thực hiện nghiêm quy chuẩn, quy trình, chế độ trực trong sản xuất; làm tốt công tác giáo dục, bồi dưỡng, tập huấn nâng cao nhận thức, ý thức tự giác trong công tác an toàn, vệ sinh lao động, phòng, chống cháy nổ cho cán bộ, công nhân, viên chức, người lao động. Chủ động bảo đảm đủ lực lượng, phương tiện, cơ sở vật chất hậu cần, kỹ thuật theo phương châm “4 tại chỗ”. Đồng thời, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ vào nhận diện, cảnh báo, phát hiện, xử lý kịp thời nguy cơ mất an toàn trong sản xuất, góp phần giảm thiểu các vụ tai nạn, sự cố lao động so với trước đây. Đáng chú ý là, Tổng Công ty đã triển khai có hiệu quả các giải pháp thông gió hợp lý, nhất là ứng dụng phần mềm Vensim, Kzamazu vào tính toán, quản lý thông gió mỏ, sử dụng các loại quạt gió lớn có cơ cấu đảo chiều FBDCZ No (10-22) lắp đặt cho các trạm thông gió chính ở các mỏ, hầm lò và quạt gió đa cấp loại FBDY, DBKJ,... để thông gió cho các gương lò đào có chiều dài thông gió cục bộ lớn từ 300 m - 1500 m, giúp rút ngắn thời gian thi công các đường lò khai thông, đẩy nhanh tiến độ ra than của các diện khai thác, tăng năng suất lao động, cải thiện điều kiện làm việc. Ngoài ra, Tổng Công ty còn chú trọng lắp đặt, chuyển giao, vận hành thành công các trạm giám sát khí mỏ tập trung tự động, kết nối, truyền kết quả qua mạng internet về văn phòng các đơn vị và Tổng Công ty phục vụ việc quản lý, điều hành; lắp đặt, vận hành hệ thống camera giám sát hoạt động tời trục chở người trên giếng nghiêng, quản lý xe than bằng hệ thống định vị GPGS, v.v.
Với quan điểm phát triển sản xuất, kinh doanh phải đi đôi với bảo vệ môi trường, Tổng Công ty đã đầu tư lắp đặt hệ thống băng tải tự hành khép kín vận chuyển than từ kho chế biến ra tới bến cảng, không để bụi, than rơi vãi xung quanh, vừa tiết kiệm chi phí, nhân công lao động, phương tiện trong bốc xúc, vận chuyển, vừa bảo vệ môi trường. Tổng Công ty còn lắp đặt, vận hành hệ thống quan trắc nước thải tự động với 14 trạm quan trắc liên tục truyền các số liệu, như: lưu lượng (đầu vào, đầu ra), nhiệt độ, pH, COD, Fe, Mn,... về Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Quảng Ninh để các cơ quan chức năng theo dõi, đánh giá lượng nước xả thải.
Bằng các giải pháp quyết liệt, đồng bộ trong thực hiện khâu đột phá nghiên cứu, đổi mới, ứng dụng công nghệ, phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật vào sản xuất đã góp phần đưa sản lượng khai thác than của Tổng Công ty giai đoạn 2015 - 2020 đạt 127%, tiêu thụ than đạt 149%, tổng doanh thu đạt 158%, vượt mức so với giai đoạn trước. Riêng năm 2021, Tổng Công ty đã sản xuất được hơn 7,2 triệu tấn than nguyên khai, tiêu thụ 10 triệu tấn than các loại, doanh thu đạt hơn 18.000 tỉ đồng, lợi nhuận trên 586 tỉ đồng, thu nhập bình quân của người lao động hơn 17 triệu đồng/người/tháng.
Phát huy kết quả đạt được, thời gian tới, Tổng Công ty tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu, phát triển khoa học kỹ thuật, đổi mới công nghệ, hiện đại hóa công đoạn sản xuất phù hợp, nâng cao mức độ an toàn, cải thiện điều kiện làm việc, khai thác tiết kiệm, hiệu quả nguồn tài nguyên. Trọng tâm vào triển khai thực hiện các đề án, dự án theo Quy hoạch phát triển ngành than của Chính phủ nhằm ổn định sản xuất và góp phần đảm bảo đủ than cung cấp cho các nhà máy nhiệt điện, các tổ chức, hộ tiêu thụ. Đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ 4.0 ngay từ quy trình khoan thăm dò, nắm chắc các biến động địa chất trong lòng đất, quan sát được vỉa than qua mô hình 3D; nghiên cứu, áp dụng thử nghiệm các thiết bị cơ giới hóa trong các công đoạn đào lò và khai thác than phù hợp với quy mô, công suất các mỏ hầm lò, v.v. Tăng cường phối hợp với các đơn vị của Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam giải quyết tốt các vấn đề liên quan đến kỹ thuật mỏ, nhất là việc đổ thải, thoát nước các mỏ lộ thiên để cùng nhau duy trì sản xuất an toàn, hiệu quả, xây dựng Tổng Công ty Đông Bắc trở thành doanh nghiệp hàng đầu trong sản xuất, chế biến, kinh doanh than, góp phần bảo đảm vững chắc an ninh năng lượng quốc gia.
Đại tá PHƯƠNG KIM MINH, Tổng Giám đốc Tổng Công ty ________________
1 - Từ năm 2017 đến năm 2021, đã có 110 sáng kiến cải tiến kỹ thuật được áp dụng vào quá trình khai thác, chế biến, sàng tuyển than, làm lợi cho Tổng công ty hàng chục tỉ đồng.
2 - Năng suất lao động tăng 1,75 lần so với lò dọc vỉa phân tầng; công suất lò chợ tăng 1,8 lần so với khi khấu phân tầng.
Tổng Công ty Đông Bắc,đột phá đổi mới,ứng dụng công nghệ,phát triển sản xuất
Phong trào Thi đua Quyết thắng ở Sư đoàn 8 - kết quả và kinh nghiệm 21/11/2024
Lực lượng vũ trang tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu phát huy vai trò nòng cốt trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh 11/11/2024
Lữ đoàn Công binh 229 chủ động khắc phục khó khăn nâng cao chất lượng huấn luyện chiến đấu 04/11/2024
Trung tâm Công nghệ xử lý bom mìn đột phá nâng cao chất lượng công tác nghiên cứu khoa học 28/10/2024
Lữ đoàn Pháo binh 164 tập trung nâng cao sức mạnh chiến đấu 24/10/2024
Trường Cao đẳng Biên phòng nâng cao chất lượng huấn luyện, đào tạo 21/10/2024
Mấy kinh nghiệm xây dựng vững mạnh toàn diện “mẫu mực, tiêu biểu” ở Lữ đoàn Pháo binh 572 17/10/2024
Nhà máy Z157 nâng cao chất lượng bảo đảm kỹ thuật xe - máy trong thời kỳ mới 14/10/2024
Trường Sĩ quan Tăng thiết giáp thi đua “dạy tốt, học tốt” 10/10/2024
Nhà máy Z199 vững bước trên con đường hội nhập và phát triển 27/09/2024
Lữ đoàn Pháo binh 164 tập trung nâng cao sức mạnh chiến đấu
Trung tâm Công nghệ xử lý bom mìn đột phá nâng cao chất lượng công tác nghiên cứu khoa học
Lữ đoàn Công binh 229 chủ động khắc phục khó khăn nâng cao chất lượng huấn luyện chiến đấu
Lực lượng vũ trang tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu phát huy vai trò nòng cốt trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh
Phong trào Thi đua Quyết thắng ở Sư đoàn 8 - kết quả và kinh nghiệm