QPTD -Thứ Ba, 20/12/2022, 08:26 (GMT+7)
Thực thi Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 và đóng góp của Việt Nam trong phát triển bền vững biển và đại dương

Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS) là văn kiện pháp lý quốc tế quan trọng, phổ quát toàn bộ các vấn liên quan đến biển và đại dương. Đây là cơ sở để các nước có biển khẳng định chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia trên biển; giải quyết hòa bình các vấn đề, tranh chấp về biển và đại dương. Nhận thức rõ điều đó, những năm qua, Việt Nam đẩy mạnh thực thi UNCLOS, góp phần thực hiện mục tiêu phát triển bền vững biển và đại dương.

Với sự tham gia của 168 quốc gia, Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS) được đánh giá là văn kiện pháp lý quốc tế quan trọng kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, chỉ sau Hiến chương Liên hợp quốc. Theo đó, Công ước đã quy định về quy chế các vùng biển, cách xác định ranh giới trên biển, phân định biển, cơ chế giải quyết tranh chấp;... đồng thời, quy định những vấn đề quan trọng liên quan đến bảo tồn, bảo vệ môi trường biển, sử dụng bền vững biển. Chính vì vậy, Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển còn được coi là “Hiến pháp của đại dương”.  

UNCLOS không chỉ tạo ra một khuôn khổ pháp lý toàn diện, phổ quát một cơ chế giải quyết tranh chấp sáng tạo, thúc đẩy hòa bình, ổn định trên biển, mà còn có những quy định tiến bộ, gắn liền với định hướng quản trị, thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững về biển và đại dương trong tương lai. Bởi, các mục tiêu phát triển bền vững nói chung, bảo tồn và sử dụng bền vững biển, đại dương và tài nguyên biển nói riêng mãi đến năm 2015 mới được Liên hợp quốc thông qua. Song, các quy định của UNCLOS đưa ra trước đó hoàn toàn phù hợp với mục tiêu bảo tồn và sử dụng bền vững biển, đại dương và tài nguyên biển hiện nay. Ngoài ra, Công ước cũng quy định, các quốc gia đẩy mạnh hợp tác, thực hiện các chương trình nghiên cứu, hỗ trợ kỹ thuật nhằm bảo vệ, gìn giữ môi trường biển, ngăn ngừa, hạn chế ô nhiễm biển; quy định khung pháp lý liên quan tới nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ biển (phần XIII và XIV của Công ước), hỗ trợ kỹ thuật, hỗ trợ và đối xử ưu tiên cho các quốc gia đang phát triển trong lĩnh vực khoa học, kỹ thuật bao gồm cả việc trợ cấp vốn, cung cấp cơ sở vật chất, chuyên môn (Điều 202 và 203).

Mục tiêu của UNCLOS là thiết lập một trật tự pháp lý cho các vùng biển và đại dương, tạo thuận lợi cho việc sử dụng công bằng và hiệu quả những tài nguyên, bảo tồn những nguồn lợi sinh vật trên các vùng biển và đại dương cũng như nghiên cứu, bảo vệ và giữ gìn môi trường biển, góp phần thực hiện bảo tồn và sử dụng bền vững biển, đại dương và tài nguyên biển, v.v. Để thực hiện có hiệu quả các mục tiêu của UNCLOS, các quốc gia thành viên, các tổ chức khu vực và quốc tế, trong đó có Việt Nam cần: (1). Định hình khái niệm ô nhiễm môi trường biển một cách toàn diện và bao trùm ở tầm toàn cầu; (2). Coi bảo vệ môi trường biển là nghĩa vụ chung của tất cả các quốc gia; (3). Thực hiện tốt nghĩa vụ bảo vệ đa dạng sinh học và bảo tồn nguồn lợi sinh vật biển, tạo tiền đề cho các phát triển tiếp theo các quy định pháp lý theo hướng này; (4). Thiết lập và vận hành các cơ chế quốc tế góp phần hình thành và làm sáng tỏ các quy định pháp lý về bảo vệ môi trường biển; (5). Tạo cơ sở thúc đẩy tăng cường kiến thức khoa học và năng lực nghiên cứu, chuyển giao công nghệ biển, v.v.

Việt Nam đề cao vai trò và giá trị của UNCLOS

Với việc phê chuẩn UNCLOS1, Việt Nam biểu thị quyết tâm cao cùng cộng đồng quốc tế xây dựng một trật tự pháp lý công bằng, khuyến khích sự phát triển và hợp tác trên biển. Việt Nam đã triển khai nhiều sáng kiến, hoạt động thể hiện vai trò tích cực và có trách nhiệm đối với UNCLOS. Theo đó, Việt Nam luôn đề cao tôn chỉ và mục tiêu của UNCLOS; kêu gọi thúc đẩy hơn nữa nhận thức và thực thi Công ước; khẳng định giá trị phổ quát, nhất quán, toàn diện của UNCLOS và xem đây là văn kiện quan trọng trong quản trị biển và đại dương. Trong bối cảnh tranh chấp chủ quyền biển, đảo trên thế giới nói chung, khu vực Biển Đông nói riêng diễn biến phức tạp, khó lường, tiềm ẩn nhiều nguy cơ, Việt Nam luôn kiên trì quan điểm: tôn trọng và tuân thủ đầy đủ UNCLOS, tôn trọng các tiến trình ngoại giao và pháp lý, giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, phù hợp với luật pháp quốc tế. Điều này được Việt Nam thể hiện trong các phiên thảo luận chung cấp cao của Đại hội đồng Liên hợp quốc (khóa 74, 76, 77). Tại các phiên thảo luận, Việt Nam kêu gọi các bên giải quyết hoà bình các tranh chấp, khác biệt trên cơ sở Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, Công ước Liên hợp quốc về Luật biển 1982; kêu gọi các bên liên quan ở Biển Đông tuân thủ luật pháp quốc tế, giải quyết tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình, thực thi đầy đủ Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) và hướng đến hoàn tất Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC).

Bên cạnh đó, Việt Nam cũng khẳng định: trải qua 40 năm, UNCLOS - “Hiến pháp của đại dương” đóng vai trò quan trọng và không thể thay thế trong quản trị biển và đại dương; làm rõ hơn quy chế các vùng biển theo UNCLOS; là cơ sở để các quốc gia thực hiện chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán, trong đó có việc bảo tồn và sử dụng bền vững các nguồn tài nguyên biển. Nền tảng cơ bản để “bảo tồn và sử dụng bền vững biển, đại dương và tài nguyên biển” là tôn trọng và thực thi đầy đủ UNCLOS; tôn trọng quyền và lợi ích chính đáng của các quốc gia ven biển, trong đó có quyền thực hiện các hoạt động kinh tế biển bình thường theo UNCLOS, thúc đẩy giải quyết hòa bình các tranh chấp quốc tế.

Việt Nam tích cực tham gia các diễn đàn, hội nghị đa phương, cơ chế quốc tế; tăng cường hợp tác và thực hiện nghiêm túc các điều ước quốc tế về phân định biển, bảo vệ và sử dụng bền vững biển và đại dương

Là quốc gia khởi xướng và sáng lập nhóm Bạn bè UNCLOS (hiện có hơn 100 thành viên), Việt Nam luôn cam kết tuân thủ và đề cao UNCLOS, cùng nhóm Bạn bè UNCLOS đóng góp tích cực đối với việc quản trị đại dương, bảo tồn và khai thác biển bền vững, tăng cường hiểu biết về UNCLOS, từ đó hỗ trợ “bảo tồn và sử dụng bền vững biển, đại dương và tài nguyên biển”, đáp ứng sự quan tâm chung của cộng đồng quốc tế. Cùng với đó, Việt Nam chủ động tham gia và đóng góp tích cực, thực chất trong các cuộc đàm phán điều ước quốc tế, nghị quyết của Đại hội đồng Liên hợp quốc cũng như các tuyên bố liên quan tới việc thực thi UNCLOS và bảo vệ môi trường biển: đàm phán văn kiện pháp lý quốc tế trong khuôn khổ UNCLOS về bảo tồn và sử dụng bền vững đa dạng sinh học biển; Hiệp định về trợ cấp thủy sản, Nghị quyết của Đại hội đồng Liên hợp quốc về Đại dương và Luật biển, về nghề cá bền vững, v.v. Ngoài ra, Việt Nam cũng chủ động, tích cực tham gia các hội nghị, cơ chế quốc tế về biển và đại dương; gia nhập một số điều ước quốc tế để thực thi UNCLOS và thực hiện bảo tồn, sử dụng bền vững nguồn tài nguyên sinh vật biển, như: Hiệp định năm 1994 về thực hiện phần XI của UNCLOS, Hiệp định thực thi các quy định của UNCLOS về bảo tồn và quản lý đàn cá lưỡng cư và di cư xa, Ủy ban Nghề cá Tây Trung Thái Bình Dương, Tổ chức đối tác về quản lý môi trường các biển Đông Á, v.v.

Với nhận thức sâu sắc rằng, phân định rõ ràng ranh giới biển sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý, sử dụng bền vững tài nguyên biển, bảo vệ môi trường biển, qua đó góp phần thực hiện “Bảo tồn và sử dụng bền vững biển, đại dương và tài nguyên biển”, trên cơ sở các quy định của UNCLOS, đến nay, Việt Nam đã tiến hành đàm phán và ký 04 hiệp định phân định biển với các nước: Campuchia, Indonesia, Thái Lan và Trung Quốc, hiện đang tiếp tục đàm phán phân định vùng biển chồng lấn còn lại. Việt Nam cũng nỗ lực tham gia xây dựng nhiều khuôn khổ hợp tác quốc tế về nghề cá, nghiên cứu khoa học biển, nuôi trồng thủy sản, bảo vệ và sử dụng bền vững biển ở nhiều cấp khác nhau với các nước láng giềng và các đối tác phát triển, nhằm “Bảo tồn và sử dụng bền vững biển, đại dương và tài nguyên biển”2. Ngoài ra, Việt Nam còn tích cực hợp tác với các quốc gia có tiềm lực mạnh về biển, như: Mỹ, Anh, Pháp, Nga, Hàn Quốc, Nhật Bản, Bỉ, Ba Lan,… để tăng cường trao đổi kinh nghiệm, thúc đẩy hỗ trợ trang thiết bị, xúc tiến các dự án hợp tác trong lĩnh vực biển, đảo, cùng với cộng đồng quốc tế nỗ lực bảo tồn, sử dụng bền vững biển và đại dương.

Việt Nam tích cực, chủ động thực thi UNCLOS; tăng cường bảo vệ, sử dụng bền vững môi trường biển

Sau khi trở thành thành viên chính thức, Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản pháp lý cụ thể hóa các quy định của Công ước trên các lĩnh vực: biên giới lãnh thổ, hàng hải, thủy sản, dầu khí, bảo vệ môi trường biển và hải đảo,... làm cơ sở để thực hiện các nội dung của Công ước cũng như “Bảo tồn và sử dụng bền vững biển, đại dương và tài nguyên biển”3. Trên cơ sở điều kiện địa lý, khí hậu, thủy văn và đặc trưng của kinh tế biển, khai thác thủy sản (đánh bắt cá thủ công quy mô nhỏ), Việt Nam đưa ra các chính sách phù hợp, hành động mạnh mẽ, quyết đoán, thể hiện sự quyết tâm cao trong việc phát triển kinh tế gắn với bảo vệ môi trường nói chung và “Bảo tồn và sử dụng bền vững biển, đại dương và tài nguyên biển” nói riêng, là tiền đề vừa triển khai việc thực thi UNCLOS và “Bảo tồn và sử dụng bền vững biển, đại dương và tài nguyên biển” một cách đồng bộ, hiệu quả và toàn diện, vừa thúc đẩy phát triển kinh tế biển bền vững.

 Đặc biệt, năm 2012, Việt Nam ban hành Luật Biển Việt Nam (có hiệu lực từ ngày 01/01/2013) trên cơ sở các quy định của UNCLOS và luật  pháp quốc tế. Đây là văn kiện pháp lý quan trọng, quy định nguyên tắc quản lý và sử dụng biển; phạm vi và quy chế các vùng nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa; quy chế các đảo, quần đảo; các hoạt động trong các vùng biển Việt Nam; hợp tác quốc tế về biển; các hoạt động tìm kiếm, cứu nạn và cứu hộ, bảo vệ tài nguyên và môi trường biển; nghiên cứu khoa học biển; phát triển kinh tế biển; tuần tra kiểm soát trên biển. Ngoài ra, Việt Nam tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý nhằm thực hiện các nghĩa vụ trong UNCLOS, tăng cường bảo vệ môi trường biển, ứng phó với biến đổi khí hậu và thúc đẩy phát triển bền vững nhằm thực hiện “Bảo tồn và sử dụng bền vững biển, đại dương và tài nguyên biển” cho phát triển bền vững4. Việc ban hành hệ thống pháp luật là nền tảng, cơ sở quan trọng, thiết lập khuôn khổ pháp lý cho việc quản lý các vùng biển của Việt Nam được xác định theo UNCLOS, bảo vệ và sử dụng bền vững môi trường, tài nguyên biển, đồng thời thúc đẩy phát triển kinh tế biển bền vững, qua đó góp phần thực thi UNCLOS và “Bảo tồn và sử dụng bền vững biển, đại dương và tài nguyên biển”.

Trải qua 40 năm, UNCLOS vẫn còn nguyên giá trị và mang tính thời đại. UNCLOS đã cung cấp một khung pháp lý toàn diện giúp quản lý các hoạt động trên biển, quy định nghĩa vụ và trách nhiệm của các quốc gia trong việc gìn giữ, bảo tồn và bảo vệ môi trường biển. Đồng thời, đóng vai trò quan trọng, thiết yếu trong thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững của Liên hợp quốc, nhất là về bảo tồn và sử dụng bền vững biển, đại dương và các nguồn tài nguyên biển toàn diện, hiệu quả và thực chất; đặt ra nghĩa vụ pháp lý cho các quốc gia trong việc giảm thiểu các tác động tiêu cực từ hoạt động của con người đối với môi trường biển và đại dương. Đối với Việt Nam - quốc gia ven biển, với chiều dài bờ biển ôm trọn đất liền, biển không chỉ là nguồn sống, mà còn là “không gian sinh tồn”, phát triển cho đời đời các thế hệ mai sau thì đẩy mạnh thực thi UNCLOS sẽ góp phần quan trọng vào thực hiện mục tiêu phát triển bền vững biển và đại dương trên phạm vi quốc gia, khu vực và thế giới.

LÊ ĐỨC HẠNH, Vụ trưởng Vụ Luật pháp và Điều ước quốc tế, Bộ Ngoại giao
________
___________

1 - Ngày 23/6/1994, Quốc hội Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam chính thức phê chuẩn UNCLOS và Việt Nam trở thành thành viên thứ 63 của UNCLOS.

2 - Ngày 25/12/2000, Việt Nam ký Hiệp định về hợp tác nghề cá Vịnh Bắc Bộ với Trung Quốc.

3 - Nghị quyết số 36/NQ-TW, ngày 22/10/2018 của Ban Chấp hành Trung ương về chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Quyết định số 1746/QĐ-TTg, ngày 04/12/2019 của Thủ tướng Chính phủ về Kế hoạch hành động quốc gia về quản lý rác thải nhựa đại dương đến năm 2030; Quyết định số 1507/QĐ-TTg, ngày 13/9/2021 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Kế hoạch thực hiện Hiệp định thực thi các quy định Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 về bảo tồn và quản lý đàn cá lưỡng cư và di cư xa đến năm 2030, v.v.

4 - Ban hành: Luật Bảo vệ môi trường năm 2014; Luật Thủy sản năm 2017; Luật Hàng hải Việt Nam năm 2015; Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo năm 2015, v.v.

Ý kiến bạn đọc (0)

Chiến thắng 30 tháng Tư - ý nghĩa to lớn, giá trị vững bền
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước trước đây, cũng như trong lịch sử cận đại của dân tộc, có những sự kiện lịch sử diễn ra như một tất yếu, càng thêm thời gian càng thấy rõ hơn và nhận thức sâu sắc hơn về ý nghĩa trọng đại, giá trị vững bền của sự kiện đó. Chiến thắng 30 tháng Tư năm 1975 là sự kiện chính trị đặc biệt như thế.