QPTD -Thứ Tư, 07/05/2014, 07:39 (GMT+7)
Tiếp tục phát huy những bài học lớn của Chiến thắng Điện Biên Phủ vào sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc ngày nay
Xe rước Quốc huy tại Lễ kỷ niệm 60 năm chiến thắng Điện Biên Phủ (Nguồn: bqp.vn).

Cách đây 60 năm, chiều ngày 07-5-1954, lá cờ “Quyết chiến Quyết thắng” mà Bác Hồ trao cho Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam tung bay trên nóc hầm Sở Chỉ huy quân Pháp tại Mường Thanh, báo hiệu chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi. Chiến thắng vĩ đại đó mãi mãi là “mốc son vàng chói lọi” trong lịch sử chống ngoại xâm hào hùng của dân tộc ta.

Chiến dịch Điện Biên Phủ là đỉnh cao của chiến cuộc Đông Xuân 1953 - 1954, diễn ra trong bối cảnh cục diện chiến trường đang chuyển biến lớn có lợi cho ta, bất lợi cho địch. Sau khi phân tích, đánh giá tình hình toàn cục, Bộ Chính trị Trung ương Đảng và Tổng Quân ủy hạ Quyết tâm chiến lược: “Tập trung đại bộ phận lực lượng chủ lực thiện chiến của ta lên mặt trận Điện Biên Phủ, mở chiến dịch tiến công tiêu diệt những lực lượng tinh nhuệ nhất của địch trong tập đoàn cứ điểm mạnh nhất của chúng trên chiến trường Đông Dương1. Thực tiễn đã chứng minh đây là quyết định chính xác, thể hiện tư duy cùng tầm nhìn chiến lược sắc sảo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Thực hiện quyết tâm chiến lược đó, quân và dân ta đã khẩn trương tiến hành công tác chuẩn bị mọi mặt và bước vào trận quyết chiến chiến lược bằng khát vọng độc lập dân tộc cháy bỏng cùng ý chí quyết chiến, quyết thắng cao độ. Với tinh thần đó, chúng ta đã giành thắng lợi vang dội: đập tan tập đoàn cứ điểm mạnh nhất của quân viễn chinh Pháp, tiêu diệt và bắt làm tù binh 16.200 tên, gồm 21 tiểu đoàn2, phá hủy và thu nhiều phương tiện, trang bị quân dụng - chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc toàn thắng.

Chiến thắng vĩ đại đó đã làm phá sản hoàn toàn kế hoạch Na-va, đánh bại ý chí xâm lược của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, buộc họ phải ký Hiệp định Giơ-ne-vơ, cam kết chấm dứt chiến tranh, tôn trọng độc lập, chủ quyền của ba nước: Việt Nam – Lào – Cam-pu-chia.

Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ mãi mãi là niềm tự hào của dân tộc và điều quan trọng là đã để lại nhiều bài học quý. Những bài học đó đã được Đảng ta vận dụng sáng tạo để giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và hiện nay, trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc vẫn còn nguyên giá trị.

Trước hết là, bài học về đường lối cách mạng, đường lối tiến hành chiến tranh nhân dân đúng đắn, sáng tạo của Đảng ta.

Cần khẳng định, đây là bài học quan trọng nhất, nhân tố quyết định thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ cũng như của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Đó là đường lối vừa kháng chiến vừa kiến quốc, tự lực cánh sinh, dựa vào sức mình là chính. Đường lối ấy là kết quả sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lê-nin vào hoàn cảnh cụ thể cách mạng Việt Nam của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nhờ có đường lối cách mạng đúng, chúng ta đã tiến hành cuộc kháng chiến bằng sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc kết hợp với sức mạnh của thời đại, với tinh thần: “… thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ3. Trong thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến, địch hơn hẳn ta về lực lượng, vũ khí, trang bị, nhưng càng về sau chúng càng mất dần lợi thế và bộc lộ những nhược điểm căn bản của kẻ xâm lược; còn ta càng đánh càng mạnh, càng trưởng thành và càng thắng lớn. Thực hiện đường lối kháng chiến “toàn dân, toàn diện” và phát động chiến tranh nhân dân với lực lượng vũ trang ba thứ quân (bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích) làm nòng cốt đã phát triển rộng khắp trên cả nước, giành thắng lợi từng bước, tiến tới giành thắng lợi quyết định bằng trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ. Thắng lợi vĩ đại đó trước hết bắt nguồn từ đường lối cách mạng, đường lối chiến tranh nhân dân đúng đắn, sáng tạo của Đảng. Trong Chiến dịch lịch sử này, sức mạnh của cả dân tộc đã được phát huy và đó là cơ sở vững chắc để làm nên thắng lợi. Chiến thắng Điện Biên Phủ cũng chứng minh một chân lý của thời đại: một dân tộc dù nhỏ, nếu quyết tâm, đoàn kết chiến đấu và có một đường lối đúng thì có thể đánh bại bất cứ cuộc chiến tranh xâm lược nào.

Ngày nay, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta có cả thời cơ, thuận lợi và khó khăn, thách thức đan xen. Đáng chú ý là, các thế lực thù địch chống phá quyết liệt bằng chiến lược “Diễn biến hòa bình” với thủ đoạn hết sức thâm độc, nguy hiểm. Vì thế, hơn bao giờ hết chúng ta phải luôn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng. Trên cơ sở đó, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả nước, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại để phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong tình hình mới, phải tập trung xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc; đồng thời, chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hành động chống phá của các thế lực thù địch, bảo vệ Cương lĩnh, đường lối, quan điểm của Đảng. Đó là sự quán triệt, vận dụng, phát huy bài học về đường lối trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc nói chung, Chiến thắng Điện Biên Phủ nói riêng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc  hiện nay thiết thực nhất, ý nghĩa nhất.

Hai là, bài học về chỉ đạo chiến lược nhạy bén, sắc sảo của Đảng trong chiến dịch Điện Biên Phủ và sự phối hợp tác chiến chặt chẽ giữa các chiến trường.

Vấn đề chỉ đạo chiến lược trong chiến dịch Điện Biên Phủ và nói chung trong chiến cuộc Đông Xuân 1953 - 1954 là một điển hình thành công của đường lối quân sự cách mạng theo nguyên lý chủ nghĩa Mác – Lê-nin vận dụng vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Đó là chiến lược của chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, lấy lực lượng vũ trang ba thứ quân làm nòng cốt.

Như chúng ta biết, khi định ra kế hoạch Na-va, điểm mấu chốt trong chiến lược của thực dân Pháp là tập trung binh lực lớn nhằm tiến công tiêu diệt lực lượng chủ lực của ta, giành lại quyền chủ động, tiến tới thực hiện đòn tiến công quyết định. Và chiến trường mà chúng lựa chọn cho trận quyết chiến chiến lược đó là Điện Biên Phủ.

Trước tình hình đó, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phân tích, đánh giá âm mưu của địch, hình thái chiến trường chính xác, khoa học. Đặc biệt, chúng ta nắm vững quy luật của chiến tranh xâm lược, những mâu thuẫn và nhược điểm của chúng,... Trên cơ sở đó, hoạch định chủ trương chiến lược: phát động chiến tranh du kích trên khắp các địa bàn, tập trung lực lượng mở các cuộc tiến công vào những hướng quan trọng về chiến lược mà địch sơ hở và lực lượng tương đối yếu, nhằm tiêu diệt một bộ phận sinh lực của chúng; đồng thời, buộc chúng phải phân tán lực lượng để đối phó với ta trên những địa bàn xung yếu mà chúng không thể bỏ được. Theo đó, quán triệt phương châm chiến lược: “tích cực, chủ động, cơ động, linh hoạt”, ta đã tổ chức tiến công trên các hướng: thứ nhất, tiến công lên Tây Bắc, giải phóng Lai Châu, bao vây Điện Biên Phủ; thứ hai, liên quân Lào - Việt mở cuộc tiến công vào Trung Lào, giải phóng thị xã Thà Khẹt; thứ ba, tiến công lên Tây Nguyên, giải phóng Kon Tum, tập kích Plây-cu; thứ , liên quân Lào - Việt mở cuộc tiến công vào Thượng Lào tiêu diệt địch, giải phóng lưu vực sông Nậm-hu. Trước những đòn tiến công mạnh của ta, địch đã buộc phải thay đổi kế hoạch, từ chỗ tập trung lực lượng lớn cơ động chiến lược ở đồng bằng Bắc Bộ, gồm 44 tiểu đoàn nay chỉ còn 20 tiểu đoàn vì phải phân tán để tăng viện cho các hướng: Tây Bắc (Điện Biên Phủ), Trung Lào, Tây Nguyên và Thượng Lào. Như vậy, kế hoạch Na-va bắt đầu bị phá sản. Ta đã buộc địch phải điều động binh lực theo ý định của ta, từ đó tạo thuận lợi cho việc tổ chức trận đánh quyết định trên chiến trường do ta lựa chọn và chuẩn bị. Và khi thời cơ xuất hiện, nắm vững những điều kiện chiến thắng, chúng ta đã chuyển hướng tiến công chủ yếu, chọn Điện Biên Phủ là điểm quyết chiến chiến lược.

Nét đặc sắc về chỉ đạo chiến lược của Đảng ta còn được thể hiện ở chỗ: trong suốt quá trình chuẩn bị và thực hành chiến dịch lớn này, các chiến trường phối hợp đã hoạt động liên tục để tiêu diệt sinh lực và giam giữ lực lượng địch, không cho chúng dễ dàng tăng viện cho mặt trận chính Điện Biên Phủ. Sự chỉ đạo chiến lược chính xác đó đã quyết định thắng lợi của toàn bộ chiến cuộc Đông Xuân 1953 - 1954, mà trọng tâm là chiến dịch Điện Biên Phủ.

Bài học về sự chỉ đạo chiến lược sắc sảo của Đảng nêu trên còn nguyên giá trị trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Trong đó, vấn đề quan trọng là, chúng ta phải quán triệt, thực hiện tốt Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Theo đó, phải nắm vững mục tiêu, quan điểm, phương châm chỉ đạo, nhiệm vụ và giải pháp mà Chiến lược đã xác định để vận dụng thực hiện có hiệu quả trong thực tiễn. Đặc biệt, trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nguy cơ mất ổn định, khó lường và xu thế toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế sâu, rộng hiện nay, đòi hỏi chúng ta càng phải tỉnh táo, trên cơ sở giữ vững nguyên tắc chiến lược, nhưng linh hoạt, khôn khéo về sách lược; quán triệt phương châm “thêm bạn, bớt thù”, vừa hợp tác, vừa đấu tranh; tránh xung đột, đối đầu và tránh bị cô lập, phụ thuộc; nhận thức đúng đối tác, đối tượng theo quan điểm của Đảng để giải quyết tốt các vấn đề trong quan hệ, hợp tác quốc tế. Tiếp tục thực hiện kết hợp hai nhiệm vụ chiến lược; trong đó, lấy nhiệm vụ phát triển kinh tế là trọng tâm, xây dựng Đảng là then chốt, phát triển văn hóa làm nền tảng tinh thần của xã hội, tăng cường quốc phòng - an ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên. Kết hợp chặt chẽ các nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội với tăng cường quốc phòng, an ninh, đối ngoại, chủ động xử lý tốt các tình huống, tạo môi trường hòa bình, ổn định để phát triển toàn diện đất nước.

Ba là, bài học về xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân vững mạnh, đặc biệt là các đơn vị bộ đội chủ lực để thực hiện những đòn tiến công quyết định giành thắng lợi trên chiến trường.

Nắm vững nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lê-nin về đấu tranh vũ trang và tổ chức quân đội kiểu mới của giai cấp vô sản, nên ngay từ đầu cũng như trong suốt cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Đảng ta luôn coi trọng xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân vững mạnh, rộng khắp, làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc. Nhờ đó, chiến tranh nhân dân đã không ngừng phát triển trên địa bàn cả nước với phương thức tác chiến là: kết hợp giữa chiến tranh nhân dân địa phương với chiến tranh chính quy của các đơn vị bộ đội chủ lực. Đặc biệt, bước vào chiến cuộc Đông Xuân 1953 - 1954, lực lượng chủ lực được tổ chức đến cấp sư đoàn và đến chiến dịch Điện Biên Phủ phát triển khá nhanh các binh chủng pháo binh, phòng không. Với sự lớn mạnh của bộ đội chủ lực, chúng ta có điều kiện tổ chức các chiến dịch quy mô ngày càng lớn, tạo ra những “quả đấm thép” mang tính quyết định thắng lợi trên chiến trường; trong đó, đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ. Tại trận quyết chiến chiến lược này, chúng ta đã tập trung lực lượng bộ đội chủ lực tham gia, gồm: 03 đại đoàn bộ binh (308, 312, 316), 01 trung đoàn thuộc Đại đoàn 304 và một số đơn vị binh chủng; lực lượng phục vụ chiến dịch rất lớn, gồm: 6.280 ô tô vận tải, 21.000 xe đạp thồ, 251.000 dân công,... Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ là thắng lợi của chiến tranh nhân dân, mà nòng cốt là lực lượng vũ trang ba thứ quân; trong đó, bộ đội chủ lực giữ vai trò quyết định. 

 Kế thừa và vận dụng bài học đó vào sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc hiện nay, chúng ta cần tiếp tục xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân vững mạnh, làm nòng cốt cho nền quốc phòng toàn dân trong thời bình và chiến tranh nhân dân khi đất nước bị xâm lược. Trong đó, phải tập trung xây dựng QĐND “Cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại” theo Nghị quyết Đại hội XI của Đảng đã xác định. Trước hết, phải coi trọng xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức làm cơ sở để nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu. Các đơn vị phải thường xuyên giáo dục chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tăng cường bản chất cách mạng cho cán bộ, chiến sĩ. Cùng với đó, chú trọng đẩy mạnh xây dựng chính quy lên một bước mới gắn với quản lý, rèn luyện kỷ luật Quân đội, tích cực đổi mới công tác đào tạo, huấn luyện và các mặt công tác khác, đảm bảo cho Quân đội ngày càng tinh nhuệ hơn, trước hết là tinh nhuệ về chính trị và trình độ tác chiến. Trước yêu cầu cao của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, chúng ta phải đẩy mạnh tiến trình xây dựng Quân đội từng bước hiện đại; trong đó, tập trung đầu tư cho một số lực lượng tiến thẳng lên hiện đại theo lộ trình đã xác định.

Chú trọng xây dựng cơ quan quân sự địa phương vững mạnh, đủ năng lực làm tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng khu vực phòng thủ địa phương vững chắc. Tiếp tục đổi mới công tác xây dựng lực lượng dự bị động viên theo hướng gọn, mạnh, chất lượng cao; trong đó, tập trung thực hiện tốt công tác quản lý, huấn luyện và sẵn sàng cả con ng­ười và ph­ương tiện. Trên cơ sở Luật Dân quân tự vệ, các địa phương cần tập trung xây dựng lực lượng dân quân tự vệ có số lượng hợp lý và chất lượng ngày càng cao, nhất là chất lượng về chính trị; coi trọng chỉ đạo xây dựng các trung đội, tiểu đội dân quân thường trực ở địa bàn trọng điểm biên giới, biển đảo; đồng thời, nâng cao khả năng phát hiện, xử lý các tình huống về quốc phòng - an ninh.

Bốn là, bài học về phát huy cao độ tinh thần quyết chiến, quyết thắng quân xâm lược của quân và dân ta trong chiến dịch Điện Biên Phủ.

Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận định: Chiến dịch Điện Biên Phủ có ý nghĩa rất quan trọng đối với tình hình quân sự và chính trị ở nước ta, đối với sự trưởng thành của Quân đội ta, đối với tiền đồ kháng chiến của nhân dân ta, cũng như đối với sự nghiệp đấu tranh giải phóng của các dân tộc trên thế giới. Vì thế, nhiệm vụ trọng đại mà Đảng và Chính phủ đề ra cho toàn quân, toàn dân là: tập trung lực lượng, quán triệt quyết tâm “tích cực phát huy tinh thần chiến đấu anh dũng, chịu đựng gian khổ, giành toàn thắng cho Chiến dịch”. Thực tế diễn biến Chiến dịch cho thấy, quân và dân ta đã phấn đấu thực hiện nhiệm vụ trọng đại đó với một quyết tâm rất cao, sự bền bỉ vượt qua khó khăn, gian khổ rất lớn và tinh thần chiến đấu rất dũng cảm, ngoan cường để giành chiến thắng. Ý chí quyết chiến, quyết thắng cao độ của bộ đội được thể hiện rõ trong việc hoàn thành một khối lượng lớn công việc ở giai đoạn chuẩn bị Chiến dịch và tiếp đó là trong quá trình thực hành Chiến dịch. Đặc biệt, khi ta thay đổi phương pháp tác chiến, từ “đánh nhanh, giải quyết nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc” với một loạt vấn đề đặt ra về mặt tư tưởng phải giải quyết cũng như trong suốt 55 ngày đêm chiến đấu liên tục, bộ đội ta đã thể hiện sự quyết chiến, quyết thắng với sức mạnh phi thường - người trước ngã, người sau xông lên. Tinh thần quyết chiến, quyết thắng ấy còn thể hiện sinh động ở sự chi viện đắc lực của hậu phương Chiến dịch qua những đoàn dân công hỏa tuyến nườm nượp vận tải lương thực, thực phẩm ra mặt trận, với khẩu hiện “Tất cả cho mặt trận, tất cả để chiến thắng”. Cùng với mặt trận Điện Biên Phủ, tinh thần quyết chiến, quyết thắng của quân và dân ta còn được thể hiện rõ ở các mặt trận phối hợp và các địa phương. Ý chí quyết chiến, quyết thắng của quân và dân ta không tự nhiên mà có, nó là biểu hiện tập trung của khát vọng độc lập, tự do, của lòng yêu nước nồng nàn, chí căm thù giặc sâu sắc, của lòng trung thành vô hạn đối với sự nghiệp đấu tranh cách mạng của dân tộc, của Đảng. Nó bắt nguồn từ truyền thống kiên cường bất khuất của dân tộc, từ bản chất cách mạng, từ lập trường giai cấp, từ sự giáo dục, rèn luyện của người đảng viên, cán bộ, chiến sĩ trong QĐND. Có thể khẳng định đó chính là một trong những nhân tố quyết định đưa chiến dịch Điện Biên Phủ và cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược đến thắng lợi rực rỡ. Dấu ấn của tinh thần quyết chiến, quyết thắng sẽ mãi mãi in đậm trên Quân kỳ Quyết thắng của QĐND Việt Nam.

Để phát huy bài học trên vào sự nghiệp xây dựng QĐND hiện nay, chúng ta cần tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục chính trị - tư tưởng, xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị. Trong đó, phải tập trung giáo dục cho bộ đội về lý tưởng cách mạng, mục tiêu chiến đấu, kiên định độc lập dân tộc và CNXH, có bản lĩnh chính trị cao, luôn quán triệt và chấp hành nghiêm túc Cương lĩnh, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, sẵn sàng nhận và hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao. Đặc biệt, trong tình hình hiện nay, trước sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch bằng chiến lược “Diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự biễn biến”, “tự chuyển hóa”, “phi chính trị hóa” quân đội, đòi hỏi QĐND càng phải coi trọng công tác xây dựng Đảng; giữ vững sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với Quân đội và sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Đây là vấn đề mang tính nguyên tắc, đảm bảo cho Quân đội thực sự là lực lượng chính trị trung thành, tin cậy của Đảng, Tổ quốc, nhân dân và là lực lượng nòng cốt trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Thời gian tới, cần tiếp tục thực hiện tốt Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) về xây dựng Đảng và Chỉ thị 03-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa XI), coi trọng xây dựng, nhân rộng các nhân tố điển hình tiên tiến trong học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; tổ chức tốt Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ” mà Thường vụ Quân ủy Trung ương đã phát động. Qua đó, không ngừng nâng cao bản lĩnh chính trị, ý chí, quyết tâm, trách nhiệm của đảng viên, cán bộ, chiến sĩ trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao và giữ gìn đạo đức, lối sống. Đồng thời, phải tăng cường sự đoàn kết, thống nhất, củng cố mối quan hệ và tình thương yêu như ruột thịt giữa cán bộ và chiến sĩ, cấp trên và cấp dưới, giữ vững phẩm chất tốt đẹp “Bộ đội Cụ Hồ”, tăng cường đoàn kết quân - dân, tích cực xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc, tạo niềm tin yêu, quý mến của nhân dân đối với Quân đội.

Năm là, bài học về tăng cường đoàn kết quốc tế, mối quan hệ hữu nghị và sự liên minh chiến đấu của quân và dân ba nước Đông Dương.

Một trong những nguyên nhân thắng lợi của chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ là Đảng ta đã phát huy cao độ sức mạnh của dân tộc kết hợp với sức mạnh của thời đại; đặc biệt là, sự đoàn kết, liên minh chiến đấu chống kẻ thù chung của quân và dân ba nước Việt Nam – Lào – Cam-pu-chia anh em. Chính nhờ sự phối hợp chặt chẽ đó đã làm cho địch phải phân tán lực lượng để đối phó trên khắp chiến trường Đông Dương, tạo điều kiện để ta giành thắng lợi ở mặt trận Điện Biên Phủ.

Thấu suốt quan điểm cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới và luôn kiên định thực hiện đường lối đoàn kết quốc tế trong sáng, hữu nghị nên trong chiến dịch Điện Biên Phủ và nói chung trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, chúng ta đã nhận được sự ủng hộ to lớn của các lực lượng tiến bộ và các nước XHCN anh em, nhất là Liên Xô và Trung Quốc đối với cuộc chiến tranh chính nghĩa của nhân dân ta. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ “Trung Quốc quyết định toàn lực chi viện, chiến trường cần thứ gì, cần bao nhiêu đều cố gắng cung cấp nhanh nhất”4. Cùng với chi viện về vật chất, vũ khí, trang bị kỹ thuật, Trung Quốc còn giúp đỡ huấn luyện quân sự, bồi dưỡng kiến thức về tác chiến,... Đảng, Nhà nước và nhân dân ta không bao giờ quên sự ủng hộ hiệu quả của Trung Quốc, Liên Xô, của các nước XHCN và nhân dân yêu chuộng hòa bình trên toàn thế giới, trong đó có nhân dân Pháp.

Phát huy bài học đó vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay, chúng ta phải quán triệt, nắm vững, thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại của Đảng; phải triển khai đồng bộ, toàn diện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, tạo môi trường quốc tế thuận lợi để phát triển toàn diện đất nước. Trên cơ sở đó, đẩy mạnh công tác đối ngoại quốc phòng theo tinh thần Nghị quyết 22-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa XI) về hội nhập quốc tế và Nghị quyết 806-NQ/QUTƯ của Quân ủy Trung ương về hội nhập quốc tế trên lĩnh vực quốc phòng. Trong đó, chú trọng đưa quan hệ với các đối tác, nhất là các nước láng giềng, các nước ASEAN, các nước lớn, các nước bạn bè truyền thống đi vào chiều sâu, ổn định, vững chắc. Phối hợp chặt chẽ đối ngoại Nhà nước, đối ngoại Đảng và đối ngoại nhân dân để tích cực tuyên truyền các thành tựu của ta về lĩnh vực dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo với cộng đồng quốc tế; đồng thời, chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hành động chống phá ta của các thế lực thù địch và các hoạt động xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.

Đã sáu mươi năm qua đi nhưng Chiến thắng Điện Biên Phủ cùng những bài học quý được rút ra từ Chiến thắng vĩ đại đó còn nguyên giá trị. Trong niềm phấn khởi Kỷ niệm Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, chúng ta tưởng nhớ, tri ân và tôn vinh các anh hùng, liệt sĩ; bày tỏ lòng biết ơn đối với nhân dân anh hùng, Đảng quang vinh, Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại và Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp - Người Tư lệnh Chiến dịch xuất sắc. Với tinh thần đó, QĐND tiếp tục phấn đấu hoàn thành tốt Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN trong giai đoạn cách mạng mới.

Đại tướng PHÙNG QUANG THANH

Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư QUTƯ, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng
_____________________

1 - Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam - Chiến dịch tiến công Điện Biên Phủ, Nxb QĐND, H. 1991, tr. 14.

2 - Điện Biên Phủ mốc vàng thời đại, Nxb QĐND,       H. 2004, tr. 191.

3 - Hồ Chí Minh - Toàn tập, Tập 4, Nxb CTQG,     H. 2011, tr. 534.

4 - Bộ Quốc phòng - Tỉnh ủy Điện Biên, Chiến thắng Điện Biên Phủ sức mạnh Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh, Nxb QĐND, H. 2014, tr. 469.

Ý kiến bạn đọc (0)

Chiến thắng "Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không" năm 1972 – bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam
Sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng vừa là nguyên tắc, vừa là cơ sở, nền tảng vững chắc để cán bộ, chiến sĩ trong toàn quân luôn có bản lĩnh chính trị kiên định, vững vàng, ý chí, quyết tâm cao, có niềm tin vững chắc vào con đường cách mạng mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn, tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng;...