QPTD -Thứ Hai, 04/03/2013, 08:46 (GMT+7)
Những điểm mới nổi bật trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992

Theo Báo QĐND - Tại Kỳ họp thứ tư, Quốc hội khóa XIII đã thảo luận, cho ý kiến bước đầu về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 và ban hành Nghị quyết số 38/2012/QH13 ngày 23-11-2012 về tổ chức lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 (sau đây gọi là Dự thảo). Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội, Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã tổ chức nghiên cứu tiếp thu ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội, chỉnh lý Dự thảo và ngày 2-1-2013, đã công bố lấy ý kiến nhân dân, các ngành, các cấp. Dự thảo sửa đổi Hiến pháp có 11 chương, 124 điều. So với Hiến pháp năm 1992, Dự thảo giảm 1 chương, 23 điều, giữ nguyên 14 điều, sửa đổi, bổ sung 99 điều và bổ sung 11 điều mới. Như vậy, Dự thảo có nhiều điểm mới. Chúng tôi xin giới thiệu những điểm mới nổi bật.   

1. Về chế độ chính trị   

Về cơ bản, Dự thảo tiếp tục khẳng định bản chất và mô hình tổng thể chế độ chính trị đã được xác định trong Hiến pháp năm 1992; đồng thời đã sửa đổi, bổ sung làm rõ hơn, đầy đủ và sâu sắc hơn nhiều vấn đề, nhất là những vấn đề sau:

Một là, Dự thảo đã bổ sung, phát triển nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước. Dự thảo quy định “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” (Điều 2). So với Hiến pháp năm 1992, Dự thảo bổ sung quy định “kiểm soát” quyền lực nhà nước theo tinh thần của Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011). Đây là một trong những điểm mới của Dự thảo Hiến pháp. Kiểm soát quyền lực là nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền để các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp thực thi có hiệu lực, hiệu quả chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo Hiến pháp và pháp luật, tránh việc lợi dụng, lạm dụng quyền lợi.

Hai là, Dự thảo sửa đổi, bổ sung các quy định đúng đắn, hợp lý về Đảng. Kế thừa và phát triển bản Hiến pháp năm 1992, Điều 4, Dự thảo quy định:

1. “Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.

2. Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình.

3. Các tổ chức của Đảng và đảng viên hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”.

So với Hiến pháp năm 1992, quy định về Đảng trong Dự thảo có 3 bổ sung, phát triển quan trọng: (1) Khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ là đội tiên phong của giai cấp công nhân, mà đồng thời còn là đội tiên phong của nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam. Bởi lẽ, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lê-nin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Đây là nét sáng tạo đột phá phù hợp với đặc điểm Việt Nam của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trên thực tế, Đảng ta ra đời, tồn tại và phát triển là vì lợi ích không chỉ của giai cấp công nhân mà còn vì lợi ích của nhân dân lao động, của toàn dân tộc. Đảng ta không có lợi ích tư thân. (2) Bổ sung quy định “Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình”. Sự bổ sung này quy định bản chất, trách nhiệm của Đảng đối với nhân dân. (3) Khẳng định không chỉ các tổ chức của Đảng mà còn quy định thêm về việc tuân thủ, thi hành Hiến pháp và pháp luật đối với mỗi đảng viên. Đảng viên phải tự giác gương mẫu, thực hiện, chấp hành Hiến pháp và pháp luật.

Ba là, Dự thảo quy định rõ hơn, đầy đủ hơn các phương thức để nhân dân thực hiện quyền lực Nhà nước. Điều 6, Hiến pháp năm 1992 quy định “Nhân dân sử dụng quyền lực Nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân” Quy định như Hiến pháp năm 1992 chưa đầy đủ và chặt chẽ. Dự thảo quy định “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng các hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước”. Như vậy, Dự thảo đã bổ sung quy định nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng “hình thức dân chủ trực tiếp”. Đây là hình thức đang là xu thế của Việt Nam và thế giới. Nhân dân làm chủ quyền lực nhà nước không chỉ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân mà còn thông qua các cơ quan khác của Nhà nước. Nội dung này đã được khẳng định trong Điều 2, Dự thảo “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân” và được thể hiện nhất quán trong toàn bộ Dự thảo Hiến pháp.

2. Về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân   

Dự thảo đã kế thừa Hiến pháp năm 1992 và các bản Hiến pháp trước đó và có nhiều sửa đổi, bổ sung. Nổi lên là những sửa đổi, bổ sung sau:

Một là, bổ sung tên chương và thay đổi vị trí của chương

Chương V, Hiến pháp năm 1992: “Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân”. Dự thảo bổ sung nội dung “Quyền con người” thành “Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân” để khẳng định giá trị, vai trò quan trọng của quyền con người trong Hiến pháp. Hiến pháp năm 1946 có chương “Nghĩa vụ và quyền lợi công dân” để ở chương 2. Hiến pháp nhiều nước trên thế giới cũng để ở chương 2. Kế thừa Hiến pháp năm 1946, tiếp thu tinh hoa thế giới, Dự thảo đưa Chương “Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân” lên thành Chương 2 là hoàn toàn hợp lý và đúng đắn.

Hai là, Dự thảo tiếp tục khẳng định và làm rõ hơn các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong Hiến pháp năm 1992. Đồng thời, đã bổ sung một số quyền mới là kết quả của quá trình phát triển đổi mới đất nước, phù hợp với các điều ước quốc tế về quyền con người mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. Đó là: Mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền của người khác. Không được lợi dụng quyền con người, quyền công dân để xâm phạm lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác (Điều 16); Mọi người có quyền sống (Điều 21); Mọi người có quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người và hiến xác theo quy định của luật. Việc thử nghiệm y học, dược học, khoa học hay bất kỳ hình thức thử nghiệm khác trên cơ thể phải được người đó đồng ý (Điều 22); Quyền sở hữu tư nhân và quyền kế thừa được pháp luật bảo hộ (Điều 33); Công dân có quyền được bảo đảm an sinh xã hội (Điều 35); Nam, nữ có quyền kết hôn và ly hôn (Điều 44); Công dân có quyền xác định dân tộc của mình, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, tự do lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp (Điều 45); Mọi người có quyền được sống trong môi trường trong lành. Mọi người có nghĩa vụ bảo vệ môi trường (Điều 46) v.v..   

3. Về kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường   

Chương III của Dự thảo được xây dựng trên cơ sở lồng ghép Chương II: Chế độ kinh tế và Chương III: Văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ của Hiến pháp năm 1992 thành Chương “Kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường”, nhằm thể hiện sự gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa phát triển kinh tế, bảo đảm công bằng xã hội với phát triển văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và bảo vệ môi trường.

Thể chế hóa đường lối, quan điểm của Đảng, Dự thảo quy định “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ trên cơ sở phát huy nội lực, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; phát triển kinh tế kết hợp chặt chẽ, hài hòa với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường” (Điều 53). Các quy định của Chương III về phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, khoa học, công nghệ và bảo vệ môi trường mang tính nguyên tắc, khái quát ở tầm Hiến pháp, những vấn đề cụ thể sẽ do các văn bản pháp luật chuyên ngành điều chỉnh để đáp ứng yêu cầu trong từng giai đoạn phát triển cụ thể của đất nước, phù hợp với chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.   Một là, về chế độ kinh tế

Dự thảo khẳng định “Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế. Các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân, cùng phát triển lâu dài, hợp tác, bình đẳng và cạnh tranh theo pháp luật” (Điều 54). Quy định này vừa bám sát nội dung của Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011), vừa phù hợp với tính chất quy định của Hiến pháp, còn tên gọi và vai trò của từng thành phần kinh tế cụ thể sẽ được xác định trong luật và các chính sách cụ thể của Nhà nước. Bởi vì, số lượng các thành phần kinh tế có sự thay đổi qua các nhiệm kỳ đại hội. 

Dự thảo quy định vai trò của Nhà nước trong việc xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, bảo đảm cho nền kinh tế vận hành theo quy luật thị trường; thực hiện sự phân công, phân cấp quản lý nhà nước giữa các ngành, các cấp, thúc đẩy liên kết kinh tế vùng, bảo đảm phát triển hợp lý, hài hòa giữa các vùng, địa phương và tính thống nhất của nền kinh tế quốc dân (Điều 55); Tổ chức, cá nhân được tự do kinh doanh. Nhà nước thực hiện chính sách chống độc quyền và bảo đảm môi trường cạnh tranh lành mạnh trong kinh doanh. Tài sản hợp lý của tổ chức, cá nhân được Nhà nước thừa nhận, bảo hộ và không bị quốc hữu hóa (Điều 56); Quy định rõ tài sản công, trong đó có đất đai thuộc sở hữu toàn dân (Điều 57).

Dự thảo khẳng định đất đai là tài nguyên đặc biệt của quốc gia, nguồn lực quan trọng phát triển đất nước, thuộc sở hữu toàn dân, được quản lý theo quy hoạch và pháp luật; quy định tổ chức, cá nhân được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, được công nhận quyền sử đụng đất để sử dụng lâu dài có thời hạn; đồng thời bổ sung quy định quyền sử dụng đất là quyền tài sản được pháp luật bảo hộ (Điều 58).

Dự thảo bổ sung một điều quy định về tài chính cũng nhằm bảo đảm việc sử dụng hiệu quả, công bằng, công khai, minh bạch, đúng pháp luật ngân sách Nhà nước, dự trữ quốc gia, quỹ tài chính nhà nước và các nguồn tài chính công khác (Điều 59).

Hai là, về bảo vệ môi trường

Dự thảo bổ sung một điều quy định: Bảo vệ môi trường là trách nhiệm của Nhà nước, xã hội và là nghĩa vụ của mỗi tổ chức, cá nhân. Nhà nước có cơ chế, chính sách bảo vệ môi trường; quản lý, sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên; bảo tồn đa dạng sinh học; phòng tránh và giảm nhẹ thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu. Mọi hoạt động bảo vệ môi trường, phát triển năng lượng mới, năng lượng tái tạo, năng lượng sạch, sản xuất sạch và tiêu dùng sạch của tổ chức, cá nhân được Nhà nước khuyến khích. Tổ chức, cá nhân gây ô nhiễm môi trường, làm suy kiệt tài nguyên thiên nhiên và suy giảm đa dạng sinh học phải bị xử lý nghiêm và có trách nhiệm khắc phục, bồi thường thiệt hại (Điều 68).   

4. Về bảo vệ Tổ quốc   

Trên cơ sở giữa nội dung và bố cục của Hiến pháp năm 1992, Dự thảo sửa đổi, bổ sung 4 điều, giữ nguyên 1 điều. Trong đó, Điều 69 quy định “Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, giữ vững an ninh quốc gia là sự nghiệp của toàn dân. Nhà nước củng cố và tăng cường nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân; lực lượng vũ trang nhân dân giữ vai trò nòng cốt; phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước để bảo vệ vững chắc Tổ quốc, góp phần bảo vệ hòa bình ở khu vực và trên thế giới. Cơ quan, tổ chức, công dân phải thực hiện đầy đủ nhiệm vụ quốc phòng và an ninh do luật định”. So với Hiến pháp năm 1992, Dự thảo có sự bổ sung quan trọng, đó là “… góp phần bảo vệ hòa bình ở khu vực và trên thế giới”. Điều 70 quy định “Lực lượng vũ trang nhân dân phải tuyệt đối trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam, Tổ quốc và nhân dân, có nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa, cùng toàn dân xây dựng đất nước và thực hiện nghĩa vụ quốc tế”. So với Hiến pháp năm 1982, Dự thảo có 3 điều bổ sung: Một là, “lực lượng vũ trang phải tuyệt đối trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam”; hai là “… bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân”; ba là, “thực hiện nghĩa vụ quốc tế”. Sự bổ sung này là cần thiết, đúng với tinh thần Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011).   

5. Về bộ máy nhà nước   

Kế thừa bản chất và mô hình tổng thể của bộ máy nhà nước trong Hiến pháp năm 1992, thể chế hóa các quan điểm về xây dựng Nhà nước pháp quyền, Dự thảo quy định rõ hơn nguyên tắc phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; xác định rõ hơn chức năng của các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp và điều chỉnh lại một số nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan này; bổ sung một số thiết chế hiến định độc lập là Hội đồng Hiến pháp, Hội đồng bầu cử quốc gia và Kiểm toán Nhà nước.

5.1. Về Quốc hội

Về vị trí, chức năng của Quốc hội, Dự thảo quy định: Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước (Điều 74). So với Hiến pháp năm 1992, Dự thảo có sửa đổi quan trọng là bỏ từ “duy nhất” trong cụm từ “Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp”. Bởi lẽ, việc lập pháp không chỉ do Quốc hội mà do nhân dân.

Về nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội, Dự thảo có một số bổ sung quan trọng sau: Một là, quy định rõ, khả thi và phù hợp hơn nhiệm vụ của Quốc hội. Khoản 3, Điều 84, Hiến pháp năm 1992 quy định Quốc hội “Quyết định kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước”. Khoản 3, Điều 85 Dự thảo quy định Quốc hội “Quyết định mục tiêu, chỉ tiêu, chính sách và nhiệm vụ cơ bản phát triển kinh tế - xã hội của đất nước”, để xác định rõ hơn vai trò, trách nhiệm và mối quan hệ giữa Quốc hội và Chính phủ. Hai là, bổ sung thẩm quyền của Quốc hội trong việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (Khoản 7, Điều 75) để phù hợp với yêu cầu đổi mới mô hình tòa án nhân dân, quy định rõ hơn vai trò của Quốc hội trong mối quan hệ với cơ quan thực hiện quyền tư pháp, đồng thời nâng cao vị thế của Thẩm phán theo tinh thần của cải cách tư pháp. Ba là, bổ sung thẩm quyền của Quốc hội trong việc giám sát quy định tổ chức và hoạt động, quyết định nhân sự đối với Hội đồng Hiến pháp, Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán Nhà nước và các cơ quan khác do Quốc hội thành lập (các khoản 2, 6, 7, 9 Điều 75).

Về đại biểu Quốc hội: Dự thảo bổ sung quy định về quyền của đại biểu Quốc hội trong việc “tham gia làm thành viên của Hội đồng Dân tộc hoặc Ủy ban của Quốc hội” (Điều 87). Đây là một quy định mới nhằm khẳng định quyền chủ động của đại biểu Quốc hội trong việc tham gia hoạt động trong Hội đồng Dân tộc hoặc Ủy ban của Quốc hội. Cùng với các quy định khác về quyền và trách nhiệm của đại biểu, quy định này nhằm bảo đảm cho đại biểu phát huy sở trường và năng lực, kinh nghiệm công tác của mình, tạo điều kiện để họ thực hiện tốt nhiệm vụ là người đại biểu của nhân dân.

5.2. Về Chủ tịch nước

Dự thảo cơ bản giữ các quy định của Hiến pháp năm 1992 về Chủ tịch nước, có hai bổ sung quan trọng. Một là, Dự thảo quy định rõ hơn nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước trong việc “Thống lĩnh lực lượng vũ trang, giữ chức Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và An ninh; quyết định phong hàm, cấp sĩ quan cấp tướng trong các lực lượng vũ trang nhân dân, đô đốc, phó đô đốc, chuẩn đô đốc hải quân; bổ nhiệm Tổng Tham mưu trưởng, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân. Căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội hoặc của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, công bố quyết định tuyên bố tình trạng chiến tranh. Căn cứ vào nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, ra lệnh tổng động viên hoặc động viên cục bộ, công bố tình trạng khẩn cấp; trong trường hợp Ủy ban Thường vụ Quốc hội không thể họp được, công bố tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương” (Khoản 5, Điều 93). Hai là, trong mối quan hệ với Chính phủ, bổ sung quy định thẩm quyền tham dự các phiên họp của Chính phủ, yêu cầu Chính phủ bàn về những vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước (Điều 95).

5.3. Về Chính phủ

Về vị trí, chức năng của Chính phủ: Bổ sung quy định Chính phủ là cơ quan “thực hiện quyền hành pháp” (Điều 99) để thể hiện rõ quan điểm và nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.

Về nhiệm vụ, quyền hạn của Thủ tướng Chính phủ: Có một số bổ sung quan trọng sau: Một là, quy định Thủ tướng có nhiệm vụ, quyền hạn “Định hướng điều hành hành động của Chính phủ; lãnh đạo hệ thống hành chính nhà nước từ Trung ương đến địa phương, bảo đảm tính thống nhất và thông suốt của nền hành chính quốc gia” (khoản 1, Điều 103). Hai là, bổ sung thêm thẩm quyền “Chỉ đạo việc đàm phán, ký kết điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước theo ủy quyền của Chủ tịch nước, đàm phán, ký hoặc gia nhập điều ước quốc tế nhân danh Chính phủ; chỉ đạo thực hiện điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên” (Khoản 4, Điều 103).

Về bộ trưởng, các thành viên Chính phủ, Dự thảo bổ sung quy định “Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ báo cáo công tác trước Chính phủ; thực hiện chế độ báo cáo trước nhân dân về những vấn đề quan trọng thuộc trách nhiệm quản lý” (Khoản 2, Điều 104).

5.4. Về Tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân

Về Tòa án nhân dân: Dự thảo đã khẳng định, Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp. Tòa án nhân dân gồm Tòa án nhân dân tối cao và các tòa án khác do luật định (Khoản 1, Điều 107). So với Hiến pháp năm 1992, Dự thảo khẳng định Tòa án nhân dân “thực hiện quyền tư pháp”, và đã viết khái quát hệ thống tổ chức của Tòa án nhân dân gồm Tòa án nhân dân tối cao và các tòa án khác do luật định. Đồng thời, Dự thảo quy định “Trong tình hình đặc biệt, Quốc hội có thể quyết định thành lập Tòa án đặc biệt” (Khoản 3, Điều 107). Ngoài việc tiếp tục khẳng định và quy định khái quát về nhiệm vụ của Tòa án nhân dân là bảo vệ lợi ích của Nhà nước và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, Dự thảo đã bổ sung nhiệm vụ quan trọng của Tòa án nhân dân là “bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân” (Khoản 2, Điều 107).

Theo yêu cầu cải cách tư pháp, trên cơ sở kết hợp với mô hình tố tụng thẩm vấn, Dự thảo đã sửa đổi, bổ sung và nhấn mạnh một số nguyên tắc trong tổ chức, hoạt động của Tòa án nhân dân, đó là “Nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa được bảo đảm” (Khoản 5, Điều 108); đồng thời bổ sung nguyên tắc “Chế độ xét xử sơ thẩm và phúc thẩm được bảo đảm”(Khoản 6, Điều 108).

Về Viện Kiểm sát nhân dân: Dự thảo đã quy định khái quát về hệ thống tổ chức “Viện Kiểm sát nhân dân gồm Viện Kiểm sát nhân dân tối cao và các Viện Kiểm sát khác do luật định (Khoản 1, Điều 112). Dự thảo bổ sung nhiệm vụ của Viện Kiểm sát nhân dân là “bảo vệ pháp luật, quyền con người, quyền công dân; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân” (Khoản 3, Điều 112). Đây là một quy định mới phù hợp với chức năng Viện Kiểm sát được giao đảm nhiệm, bởi vì, Viện Kiểm sát không chỉ có vai trò, trách nhiệm là một bên (bên buộc tội) như một số nước, mà còn có trách nhiệm chống làm oan người vô tội, phát hiện và xử lý kịp thời các vi phạm trong hoạt động tư pháp.

5.5. Về chính quyền địa phương

Về tên chương Dự thảo đã đổi tên Chương IX “Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân” của Hiến pháp năm 1992 thành chương: “Chính quyền địa phương”, để làm rõ hơn tính chất của hệ thống cơ quan nhà nước ở địa phương trong mối quan hệ với Trung ương, thể hiện tính gắn kết, mối quan hệ chặt chẽ giữa Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân trong chỉnh thể của chính quyền địa phương. Mặt khác, nội hàm của chương này không chỉ quy định về Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, mà còn quy định về việc phân chia đơn vị hành chính lãnh thổ và mối quan hệ giữa cơ quan nhà nước với Mặt trận và các đoàn thể xã hội ở địa phương.

Về đơn vị hành chính lãnh thổ: Để tạo cơ sở hiến định cho việc đổi mới tổ chức chính quyền địa phương, Dự thảo không quy định cụ thể về tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi cấp chính quyền mà quy định “Việc thành lập Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân ở các đơn vị hành chính lãnh thổ do luật định phù hợp với đặc điểm của từng đơn vị hành chính lãnh thổ và phân cấp quản lý” (Khoản 2, Điều 115).

Về đại biểu Hội đồng nhân dân: Dự thảo bổ sung quy định về việc trả lời chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dân, khẳng định rõ người bị chất vấn phải trả lời trước Hội đồng nhân dân hoặc trả lời bằng văn bản (Điều 118).

5.6. Về Hội đồng Hiến pháp, Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán Nhà nước

Dự thảo bổ sung ba điều mới quy định về ba thiết chế hiến định độc lập vào Chương X gồm: Hội đồng Hiến pháp, Hội đồng bầu cử quốc gia và Kiểm toán Nhà nước.

- Về Hội đồng Hiến pháp: Dự thảo bổ sung thiết chế Hội đồng Hiến pháp (Điều 120) nhằm thực hiện chủ trương của Đại hội IX, X và XI về việc xây dựng cơ chế phán quyết về những vi phạm Hiến pháp trong hoạt động lập pháp, hành pháp, tư pháp. Dự thảo quy định Quốc hội thành lập Hội đồng Hiến pháp là cơ quan chuyên trách bảo vệ Hiến pháp gồm: Chủ tịch, các Phó chủ tịch và Ủy viên; tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng và số lượng thành viên, việc bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm, nhiệm kỳ của thành viên sẽ do luật định (Khoản 1, 3 Điều 120).

Việc thành lập Hội đồng Hiến pháp là một bước cụ thể hóa nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; đồng thời có một cơ quan chuyên trách bảo vệ Hiến pháp chính là tạo thêm một phương thức mới, bổ sung một công cụ để Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, bảo vệ đường lối, chính sách của Đảng và bảo vệ các giá trị của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và chủ quyền nhân dân. Hội đồng Hiến pháp có thẩm quyền kiểm tra tính hợp hiến của các văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội, Chủ tịch nước, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao ban hành; kiến nghị Quốc hội xem xét lại văn bản quy phạm pháp luật của mình khi phát hiện có vi phạm Hiến pháp; yêu cầu Chủ tịch nước, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao sửa đổi, bổ sung văn bản quy phạm pháp luật của mình hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền hủy bỏ văn bản vi phạm Hiến pháp: Kiểm tra tính hợp hiến của điều ước quốc tế được ký kết nhân danh Nhà nước trước khi trình Quốc hội, Chủ tịch nước phê chuẩn (Khoản 2 Điều 120).

- Về Hội đồng bầu cử quốc gia: Dự thảo bổ sung thiết chế Hội đồng bầu cử quốc gia (Điều 121) nhằm thực hiện Kết luận của Hội nghị Trung ương 5 về việc “Tăng cường hình thức dân chủ trực tiếp theo hướng hoàn thiện chế độ bầu cử”. Dự thảo quy định về Hội đồng bầu cử quốc gia với mục đích hoàn thiện chế độ bầu cử cũng để nhằm thực hiện cho được nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, tạo cơ chế để nhân dân thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của mình. “Hội đồng bầu cử quốc gia tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội; chỉ đạo và hướng dẫn công tác bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp” (Khoản 2, Điều 121), nhằm góp phần thể hiện tính khách quan trong chỉ đạo tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân.

- Về Kiểm toán Nhà nước: Kiểm toán Nhà nước là cơ quan có vai trò quan trong trong quản trị quốc gia, thông qua các hoạt động nghiệp vụ để bảo đảm hiệu lực, hiệu quả và tính minh bạch trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước. Với vị trí, chức năng quan trọng của cơ quan này, hiện nay đa số các nước trên thế giới đều có quy định trong Hiến pháp về cơ quan Kiểm toán Nhà nước, theo đó ở mức độ, liều lượng khác nhau nhưng đều ghi nhận nguyên tắc hoạt động độc lập và không chịu can thiệp từ các thiết chế quyền lực khác của Kiểm toán Nhà nước. Xuất phát từ yêu cầu đó, Dự thảo đã bổ sung Điều 122 quy định vai trò, địa vị pháp lý và chức năng của Kiểm toán Nhà nước để tăng cường vị thế và trách nhiệm của cơ quan Kiểm toán Nhà nước. Đây là cơ quan do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập chỉ tuân theo pháp luật, có chức năng kiểm toán việc quản lý, sử dụng nguồn lực tài chính và tài sản quốc gia. Dự thảo chỉ quy định về việc Quốc hội bầu Tổng Kiểm toán Nhà nước còn những vấn đề cụ thể tổ chức, nhiệm vụ và quyền hạn của Kiểm toán Nhà nước sẽ do luật định.

6. Về quy trình sửa đổi Hiến pháp

Về quy trình sửa đổi Hiến pháp, Dự thảo Chủ tịch nước, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ hoặc ít nhất một phần ba tổng số đại biểu Quốc hội có quyền đề nghị làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp. Quốc hội quyết định việc làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp khi có ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành (Khoản 1, Điều 124). Quốc hội thành lập Ủy ban dự thảo Hiến pháp (Khoản 2, Điều 124). Ủy ban dự thảo Hiến pháp soạn thảo, tổ chức lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo Hiến pháp và trình Quốc hội về dự thảo Hiến pháp (Khoản 3, Điều 124). Dự thảo Hiến pháp được thông qua khi có ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành. Việc trưng cầu dân ý về Hiến pháp do Quốc hội quyết định (Khoản 4, Điều 124).

PGS, TS. NGUYỄN VIẾT THÔNG
Tổng Thư ký Hội đồng Lý luận Trung ương

Nguồn: qdnd.vn

Ý kiến bạn đọc (0)

Những điểm mới nổi bật trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992
Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội, Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã tổ chức nghiên cứu tiếp thu ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội, chỉnh lý Dự thảo và ngày 2-1-2013, đã công bố lấy ý kiến nhân dân, các ngành, các cấp. Dự thảo sửa đổi Hiến pháp có 11 chương, 124 điều. So với Hiến pháp năm 1992, Dự thảo giảm 1 chương, 23 điều, giữ nguyên 14 điều, sửa đổi, bổ sung 99 điều và bổ sung 11 điều mới.