QPTD -Thứ Hai, 29/01/2018, 09:30 (GMT+7)
Kỷ niệm 50 năm Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968
Nét đặc sắc về Nghệ thuật Quân sự Việt Nam trong Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968

Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 do nhiều nhân tố hợp thành, mà trước hết và cốt lõi nhất là ta đã giải quyết thành công nhiều vấn đề về chỉ đạo, điều hành chiến tranh và nghệ thuật quân sự; trong đó, có nội dung lớn về nghệ thuật tác chiến ở nhiều quy mô, cấp độ khác nhau.

Thứ nhất, nghệ thuật nắm bắt thời cơ chiến lược để chủ động tiến công địch, làm chuyển biến cục diện chiến tranh.

Trong tác chiến, thời cơ là một yếu tố rất quan trọng mà mỗi bên tham chiến cần tích cực tạo ra (tạo thời cơ) hoặc chủ động phát hiện, kịp thời chớp lấy (nắm thời cơ) làm tăng sức mạnh gấp bội của thế và lực, giành ưu thế trong chiến tranh, chiến cục hay trong các chiến dịch, trận đánh... Trên cơ sở đánh giá đúng tương quan so sánh lực lượng, Đảng ta luôn coi trọng vận dụng yếu tố thời cơ, tích cực tạo và nắm bắt thời cơ chiến lược; thúc đẩy và chớp thời cơ có lợi để hạ quyết tâm chiến lược kịp thời; chủ động đánh địch giành thắng lợi trong cuộc chiến.

Cuối năm 1965, nhận thấy đế quốc Mỹ và Chính quyền Sài Gòn thay đổi chiến lược từ "chiến tranh đặc biệt" sang "chiến tranh cục bộ", Đảng ta đã xác định rõ phương hướng để giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là: Trên cơ sở tiếp tục quán triệt phương châm đánh lâu dài, chúng ta "cần cố gắng đến cao độ, tập trung lực lượng của cả hai miền để tranh thủ thời cơ giành thắng lợi quyết định trong một thời gian tương đối ngắn trên chiến trường miền Nam"1. Phương châm chiến lược đó đã quán xuyến trong từng chiến dịch, từng đợt hoạt động quân sự và chính trị từ sau năm 1965.

Đặc biệt, khi phân tích tình hình địch, Đảng ta đi đến kết luận, tất cả ưu thế về binh lực, hỏa lực và sức cơ động của địch bị hạn chế rất nhiều trước thế trận và cách đánh của ta; chúng có nhiều chỗ yếu không khắc phục được, nhất là yếu về chính trị. Vì thế, "xu thế của tình hình trong cả năm 1968 là địch sẽ ngày càng chuyển vào phòng ngự một cách bị động hơn trước"2 và "so với mục tiêu chính trị và quân sự có hạn của chúng ở miền Nam thì những cố gắng chiến tranh của Mỹ (cùng với những thiệt hại nặng nề của chúng) ở Việt Nam đã lên tới đỉnh cao"3. Cùng với đó, Chính quyền L. Giôn-xơn đang phải đối đầu với những khó khăn to lớn về chính trị, kinh tế, quân sự, xã hội, ngoại giao do hậu quả bị sa lầy trong chiến tranh Việt Nam; trong khi đó, cuộc vận động bầu cử Tổng thống ở Mỹ đang tới gần... Đây là nhận định rất quan trọng, có ý nghĩa lớn để xác định thời điểm tiến hành đòn đánh quyết định trong việc hoạch định kế hoạch chiến lược "Tết Mậu Thân". Về phía ta, mặc dù vẫn còn nhiều khó khăn, nhược điểm (cả về tổ chức lực lượng, khả năng đánh tiêu diệt lớn, đảm bảo hậu cần và phong trào ở đô thị...) nhưng diễn biến cơ bản của tình hình cho thấy, ta đang ở thế thắng, thế chủ động và thuận lợi.

Từ những phân tích, đánh giá nêu trên, Đảng ta đã đi tới nhận định: "Chúng ta đang đứng trước những triển vọng và thời cơ chiến lược lớn. Đế quốc Mỹ đang ở trong tình thế tiến thoái lưỡng nan về chiến lược"4. Tình hình đó cho phép chúng ta có thể lợi dụng để buộc Chính phủ Mỹ phải quyết định chấm dứt chiến tranh “có thể chuyển cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân ta ở miền Nam sang một thời kỳ mới, thời kỳ tiến công và nổi dậy giành thắng lợi quyết định”5. Trên cơ sở đó, quá trình lãnh đạo, chỉ đạo chiến tranh, Đảng ta luôn kiên định chủ trương: giành thắng lợi quyết định trong một thời gian tương đối ngắn trên chiến trường miền Nam. Do đó, khi phát hiện thấy động thái mới của địch sau mùa khô 1966 - 1967, Đảng ta đã sớm dự kiến được xu thế phát triển của cuộc chiến tranh, kịp thời phát hiện được thời cơ để hạ quyết tâm chiến lược bằng việc mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968. Đây là một quyết định quan trọng, đúng đắn, sáng tạo và khoa học, thể hiện sự tài tình của Đảng trong tạo và nắm thời cơ chiến lược, tạo bước ngoặt cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Thứ hai, nghệ thuật chọn hướng, mục tiêu và nghi binh lừa địch.

Trong đợt Tết Mậu Thân 1968, hướng tiến công và nổi dậy chủ yếu của quân và dân ta là các thành phố, trung tâm đầu não của Mỹ và Chính quyền Sài Gòn, trọng điểm là Sài Gòn - Gia Định, Huế, Đà Nẵng. Hướng phối hợp quan trọng là mở Chiến dịch lớn ở Đường 9 - Khe Sanh nhằm tiêu diệt bộ phận quan trọng sinh lực Mỹ, căng kéo và kìm chân địch trên mặt trận này để hỗ trợ cho hướng tiến công chủ yếu; đồng thời, nghi binh thu hút địch. Trong đó, hướng tiến công chủ yếu vào đô thị miền Nam là một bất ngờ lớn đối với địch, khiến chúng không kịp trở tay, làm cho Oa-sinh-tơn phải "sững sờ, choáng váng". Lần đầu tiên sau nhiều năm kháng chiến, chúng ta đã đưa được chiến tranh vào thành thị; biến hậu phương và hậu cứ của địch thành chiến trường của ta. Đó là một thành công lớn của Đảng trong nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh - nghệ thuật đánh hiểm, đánh đau, đánh vào "yết hầu", vào "trung ương thần kinh địch". Đòn tiến công của ta đã nhằm trúng vào các cơ quan đầu não Trung ương và địa phương của Chính quyền Sài Gòn (các Sở chỉ huy, sân bay, bến cảng, kho tàng, căn cứ truyền tin, đầu mối giao thông); đó là các mục tiêu "yết hầu", "huyết mạch", "tim óc" của địch; những mục tiêu tập trung sinh lực cao cấp của địch, những mục tiêu nhạy cảm nhất trong bộ máy chiến tranh của chúng ở miền Nam; trong đó Tòa Đại sứ Mỹ - nơi biểu trưng cho quyền uy của Mỹ tại miền Nam Việt Nam đã bị ta tiến công và bị tê liệt trong nhiều giờ. Trận đánh vào sứ quán Mỹ đã vượt xa tầm vóc, ý nghĩa của một trận đánh cụ thể, khi toàn thế giới hướng về đó và phán xét hành động này như thể toàn bộ cuộc chiến tranh sẽ được quyết định bởi việc giành giật quyền kiểm soát "sứ quán" của cả hai bên.

Đặc biệt, các hoạt động nghi binh chiến lược nhằm phân tán lực lượng chủ lực địch, làm lạc hướng của chúng đã được các cơ quan chỉ đạo chiến lược và các cấp chỉ huy chiến trường của ta triển khai rất cơ bản. Từ cuối năm 1967, một số chiến dịch ở vùng ven biên giới, ở Tây Nguyên liên tiếp được mở, các hoạt động quân sự vùng ven đô thị, nông thôn và đồng bằng được duy trì, làm cho địch nhận định ta không còn khả năng mở các chiến dịch ở đồng bằng như trước. Trên mặt trận ngoại giao, tháng 12-1967, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tuyên bố phóng thích 02 tù binh Mỹ và ngỏ ý sẽ đi vào đàm phán với Mỹ. Điều đáng lưu ý là trước đó, ta chưa bao giờ công khai tuyên bố sẽ làm gì nếu Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc. Tín hiệu ngoại giao này càng làm cho nội bộ Chính quyền Mỹ bị phân hóa. Nhưng điều quan trọng hơn là giới lãnh đạo Mỹ càng thêm tin tưởng vào “sự suy yếu trên mặt trận quân sự của Việt Nam”. Tháng 01-1968, ta chủ động mở hai chiến dịch quân sự lớn (ở Nậm Bạc và Đường 9 - Khe Sanh), làm tăng những suy đoán sai lầm của giới chóp bu Mỹ. Ngay lập tức, Khe Sanh đã thu hút sự chú ý của Bộ Chỉ huy Quân sự Mỹ tại Sài Gòn và giới lãnh đạo Oa-sinh-tơn. Thậm chí, Tổng thống Mỹ L. Giôn-xơn đã lệnh cho Tham mưu trưởng liên quân Mỹ phải cam kết giữ Khe Sanh bằng mọi giá... Chính sự phán đoán sai lầm của Oa-sinh-tơn đã buộc Mỹ phải chịu hậu quả nặng nề trong dịp Tết Mậu Thân. Rõ ràng, nét đặc sắc về Nghệ thuật Quân sự trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 đã thể hiện rất rõ trong nghệ thuật chọn hướng, chọn mục tiêu và nghi binh lừa địch.

Thứ ba, nghệ thuật tiến công bằng phương thức tác chiến mới, giành thế bất ngờ, đưa chiến tranh vào đô thị.

Khi nghiên cứu về lịch sử chiến tranh và nghệ thuật tác chiến, cho thấy: Thông thường, khi chiến tranh sắp đến hồi kết thúc, phía mạnh hơn và chiến thắng mới có thể mở những cuộc tiến công chiến lược lớn vào sào huyệt của đối phương. Thế nhưng, phương thức tác chiến (cách đánh) của ta trong Tết Mậu Thân quả thật là độc nhất vô nhị, nó vượt ra ngoài dự báo và mọi sự tính toán trước đó của Nhà Trắng - Lầu Năm Góc, của Bộ Chỉ huy Quân sự Mỹ ở Sài Gòn. Vì nó diễn ra trong bối cảnh địch leo thang đến đỉnh cao, khi mà tướng Oét-mo-len đang chuẩn bị đợt phản công thứ ba sau những thất bại của quân đội Mỹ trong hai mùa khô (1965 - 1966 và 1966 - 1967); ta dùng là lực lượng tổng hợp (cả quân sự, chính trị), nhất là lần đầu tiên, ta đã tổ chức và phát động một cuộc tiến công đồng loạt trên khắp chiến trường rộng lớn vào các sào huyệt của địch mà vẫn giữ được bất ngờ đến giờ nổ súng. Ngay từ ngày đó, một số nhà nghiên cứu Mỹ đã cho rằng, vũ khí mạnh nhất của Việt Nam trong cuộc tiến công Tết Mậu Thân là sự bất ngờ, một cuộc tiến công “xuất thần”, nó đã “chộp đúng” Bộ Chỉ huy Quân sự Mỹ ở Sài Gòn và giới lãnh đạo Oa-sinh-tơn vào đúng lúc bất ngờ nhất, làm sửng sốt nước Mỹ vốn đầy kiêu hãnh và tự tin về tiềm lực quân sự và kinh tế to lớn của mình.

Thành công trong Tết Mậu Thân của ta về giữ bí mật toàn bộ ý định, hoạt động cho đến khi nổ súng, đã làm cho địch bị bất ngờ lớn và là một đảm bảo quan trọng cho chiến thắng của ta cả về chiến lược, chiến dịch và chiến đấu. Sự kiện Tết Mậu Thân đã có tiếng vang trên toàn thế giới, địch hoàn toàn bị bất ngờ không thể nào phán đoán nổi về cách đánh, chiến lược, chiến dịch và chiến đấu của ta. Chỉ trong khoảng 24 giờ, toàn bộ hậu phương an toàn nhất của địch đều bị tiến công, kể cả những nơi tối quan trọng nhất, như: Bộ Tổng Tham mưu, Biệt khu Thủ đô, Dinh Tổng thống Chính quyền Sài Gòn và Tòa Đại sứ Mỹ,... Các lực lượng vũ trang của ta đã thực hiện đánh địch từ trong nội đô đánh ra, kết hợp với từ bên ngoài đánh vào, đồng loạt khắp các nơi, bằng nhiều kiểu đánh của từng người, từng đơn vị lớn, nhỏ khác nhau, có sự kết hợp giữa tiến công và nổi dậy bằng mọi cách của quần chúng cách mạng với lực lượng vũ trang khiến cho địch đã bị bất ngờ càng thêm bất ngờ và lúng túng; đồng thời, làm cho thế của đôi bên trong chiến tranh bỗng chốc bị đảo ngược (hậu phương của địch thành tiền tuyến và tiền tuyến của địch hóa hậu phương). Các đơn vị thiện chiến được tung đi xa đến tận “xứ sở của đối phương” để “tìm và diệt”, thình lình nhận được lệnh cấp tốc chạy về “hậu cứ của mình” để cứu nguy cho các cơ quan đầu não, cố ngăn chặn và phản kích rồi từ đó cố "quét và giữ" cho đến khi rút lui khỏi cuộc chiến. Đây là một cách đánh rất độc đáo của chiến tranh cách mạng kết hợp với khởi nghĩa vũ trang.

Thứ tư, nghệ thuật tổ chức bố trí và sử dụng lực lượng, phát huy mạnh mẽ nhân tố con người.

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 được khởi xướng trong điều kiện lực lượng quân sự của địch tại miền Nam vẫn còn gần 1 triệu 200 nghìn tên; bộ máy chiến tranh của địch vẫn còn hiệu lực và tiềm lực chiến tranh của chúng còn dồi dào. Để đạt được mục tiêu chiến lược đánh bại ý chí xâm lược của Mỹ, Đảng ta chủ trương trong Tết Mậu Thân, dùng binh lực và hỏa lực mạnh đánh vào các binh đoàn chủ lực địch, vào Sài Gòn và các thành phố khác, tạo điều kiện cho quần chúng ở đô thị và các vùng nông thôn tạm bị chiếm nổi dậy khởi nghĩa, phối hợp với lực lượng quân sự của ta tiêu diệt và làm tan rã quân địch, đánh đổ bộ máy đầu não của Chính quyền Sài Gòn, làm rối loạn và tê liệt tận gốc bộ máy chiến tranh của Mỹ, biến hậu phương và nơi dự trữ chiến tranh của địch thành hậu phương và nơi dự trữ chiến tranh của ta, làm thay đổi lực lượng so sánh một cách mau chóng và có lợi cho ta, bất lợi cho địch.

Theo phương hướng đó, trước và trong Tết Mậu Thân, các đơn vị bộ đội chủ lực ta đã mở một số chiến dịch ở vùng rừng núi miền Đông Nam Bộ, Tây Nguyên, miền Tây Trị - Thiên nhằm kéo một bộ phận quan trọng chủ lực Mỹ lên chiến trường rừng núi, tạo điều kiện thuận lợi cho đòn tiến công và nổi dậy ở các đô thị bị Mỹ, Chính quyền Sài Gòn chiếm đóng. Ở các đô thị và vùng ven, ta sử dụng một số đơn vị bộ đội chủ lực đánh chiếm các mục tiêu, kìm chân các sư đoàn, trung đoàn chủ lực địch, tạo điều kiện cho lực lượng đặc biệt tinh nhuệ (các đội đặc công, biệt động) bất ngờ đánh chiếm một số cơ quan đầu não của địch. Từ vùng ven, các tiểu đoàn mũi nhọn được tổ chức và trang bị gọn nhẹ, nhanh chóng đánh chiếm những mục tiêu được phân công. Một số tiểu đoàn đã tiến được vào các khu vực mục tiêu nằm sâu trong nội thành, trụ lại đánh địch phản kích trong nhiều ngày. Đồng thời, ta sử dụng pháo cối và rốc-két đánh nhiều mục tiêu khác, như: sân bay, Sở chỉ huy, trung tâm thông tin của địch... Phối hợp với lực lượng đặc công, biệt động, tiểu đoàn mũi nhọn, các đội vũ trang và bán vũ trang của các ban ngành, đoàn thể, như: Thanh niên, Công vận, Phụ vận, Hoa vận... cơ động đánh địch trên đường phố. Ở vòng ngoài, các sư đoàn, trung đoàn chủ lực của ta đón đánh không cho các đơn vị chủ lực địch tăng viện vào vùng ven và nội thành, giữ phía sau cho các tiểu đoàn mũi nhọn,v.v. Tiêu điểm sự phát triển mới và đặc sắc của nghệ thuật quân sự trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 chính là nghệ thuật tổ chức bố trí, sử dụng và phương thức tác chiến sáng tạo, linh hoạt của lực lượng biệt động. Với việc bố trí, tổ chức và sử dụng lực lượng như vậy, quân và dân ta trên chiến trường đã phát huy được đầy đủ và mạnh mẽ khí thế tiến công (nhất là trong đợt Tết), khiến cho giới lãnh đạo Oa-sinh-tơn nhận thấy lực lượng quân sự của Mỹ không thể nào khuất phục nổi nhân dân Việt Nam... Đó là một thành công nổi bật trong nghệ thuật bố trí và sử dụng lực lượng, cũng như tổ chức tiến hành công tác bảo đảm cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 của Đảng ta; nghệ thuật đó đã phát huy mạnh mẽ nhân tố con người, lấy ít địch nhiều, lấy trí tuệ người Việt Nam để chiến thắng vũ khí và trí tuệ bộ máy điều hành chiến tranh của đế quốc Mỹ.

Những kinh nghiệm nêu trên không chỉ có ý nghĩa đối với việc dự báo, hoạch định chiến lược bảo vệ Tổ quốc Việt Nam trong tình hình mới, mà còn có ý nghĩa rất thiết thực đối với toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta trong cuộc chiến chống nghèo nàn, lạc hậu, chống “diễn biến hòa bình”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”,… góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh./.

Đại tá, PGS, TS. HOÀNG XUÂN NHIÊN, Học viện Quốc phòng
____
___________

1 - ĐCSVN - Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 26, Nxb CTQG, H. 2001, tr. 637, 638.

2, 3, 4, 5 - Sđd, Tập 29, tr. 47, 48, 50.

Ý kiến bạn đọc (0)

Chuyển đổi số - Động lực quan trọng phát triển lực lượng sản xuất, hoàn thiện quan hệ sản xuất đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới
Nhân kỷ niệm 79 năm Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2/9/1945 - 2/9/2024), Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm có bài viết: “Chuyển đổi số - Động lực quan trọng phát triển lực lượng sản xuất, hoàn thiện quan hệ sản xuất đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới”. Tạp chí Quốc phòng toàn dân điện tử trân trọng giới thiệu nội dung bài viết