QPTD -Thứ Ba, 19/10/2021, 07:54 (GMT+7)
Đường Hồ Chí Minh trên biển - bài học cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay

Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954, với âm mưu chia cắt lâu dài đất nước ta, đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai đã ngang nhiên xóa bỏ Hiệp định Giơ-ne-vơ, hòng biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự, nhằm ngăn chặn ảnh hưởng của chủ nghĩa Cộng sản xuống khu vực Đông Nam châu Á. Trước tình hình đó, Hội nghị lần thứ 15 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khoá II) họp tại Hà Nội, xác định con đường giải phóng miền Nam là con đường cách mạng bạo lực; chủ trương nhanh chóng tổ chức chi viện sức người, sức của, vũ khí từ miền Bắc cho chiến trường miền Nam. Thực hiện sự chỉ đạo của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương, cùng với việc tổ chức Đoàn 559 mở tuyến vận tải theo dãy Trường Sơn chi viện cho tiền tuyến; sau khi nghiên cứu, thử nghiệm và chuẩn bị về mọi mặt, ngày 23/10/1961, Bộ Tổng Tư lệnh ra quyết định thành lập Đoàn Vận tải quân sự 759, mở tuyến đường chiến lược quan trọng - Đường Hồ Chí Minh trên biển, để vận chuyển người, vũ khí, trang bị chi viện cho chiến trường miền Nam, những nơi mà đường Hồ Chí Minh trên dãy Trường Sơn chưa thể vươn tới. Quyết định thành lập Đoàn 759 (từ ngày 29/01/1964 đổi thành Đoàn 125) thể hiện tầm nhìn chiến lược sáng suốt của Bộ Chính trị, mà trực tiếp là Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng Tư lệnh; đánh dấu mốc lịch sử quan trọng, mở ra bước phát triển mới của tuyến đường vận tải chiến lược trên biển.

Tàu không số vận chuyển hàng hóa, vũ khí trên tuyến đường Hồ Chí Minh trên biển.
(Ảnh tư liệu)

Thực hiện quyết tâm chiến lược của Đảng, Đoàn 759 đã khẩn trương làm công tác chuẩn bị, tổ chức xây dựng lực lượng, phương tiện, bến bãi đi và đến. Đồng thời, hết sức coi trọng phát huy nhân tố chính trị - tinh thần, tổ chức đợt sinh hoạt chính trị, bồi dưỡng lập trường giai cấp, ý chí quyết tâm cho cán bộ, chiến sĩ, nhất là quán triệt phương án chiến đấu trên biển khi có tình huống xảy ra. Với công tác chuẩn bị chu đáo, tinh thần chiến đấu cao, những con tàu thô sơ, nhỏ bé, chở nặng vũ khí đã bí mật, bất ngờ vượt qua sóng to, gió lớn, bão táp của biển cả và sự ngăn chặn, bao vây, lùng sục của lực lượng hải quân, không quân được trang bị hệ thống quan sát, cảnh giới từ xa và vũ khí hiện đại của Mỹ, ngụy để đi đến các mặt trận của chiến trường miền Nam. Mỗi chuyến đi của “tàu không số” là mỗi lần quyết tử, một cuộc đấu trí căng thẳng, đòi hỏi cán bộ, chiến sĩ phải vừa bình tĩnh, mưu trí, quả cảm đánh lừa địch để đến đích an toàn, vừa sẵn sàng chiến đấu, chấp nhận hy sinh, nhiều khi phải phá hủy cả con tàu để bảo vệ bí mật đường vận chuyển. Quá trình thực hiện nhiệm vụ, địch phong tỏa đường trong, ta đi đường ngoài; địch phong tỏa biển gần, ta đi biển xa; địch phong tỏa theo tuyến biển dài, ta đi phân đoạn; địch ngăn chặn tuyến này, bến này, ta mở ra tuyến khác, bến khác; địch phát hiện ra cách thức vận chuyển này, ta tìm ra phương thức vận chuyển khác, v.v. Từ trong gian khổ, hiểm nguy, cán bộ, chiến sĩ “Đoàn tàu không số” đã đề xuất, tổ chức tiếp nhận, hoán cải phương tiện để có trang bị phù hợp, hiệu quả; giữ nghiêm kỷ luật chiến trường; kết hợp giữa hoạt động bí mật và công khai, giữa du kích và chính quy, truyền thống và hiện đại, sáng tạo ra chiến thuật độc đáo trong vận tải. Đồng thời, biết khéo léo kết hợp cải dạng, ngụy trang, nghi binh với các biện pháp táo bạo, bí mật, bất ngờ, thọc sâu vào bến nhanh chóng, quay vòng tăng chuyến, bảo đảm hiệu quả và an toàn.

Theo tiến trình phát triển của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, lực lượng vận tải quân sự trên biển ngày đầu chỉ có 04 tàu gỗ thô sơ gắn máy từ miền Nam đưa ra và 38 cán bộ, chiến sĩ làm nòng cốt, sau một thời gian hoạt động đã trở thành lữ đoàn vận tải, đảm đương hướng chi viện chiến lược trên biển, với những trang bị từng bước hiện đại. Từ chỗ chỉ có tàu gỗ, hoạt động ven bờ đã phát triển lên những đội tàu vỏ sắt, hoạt động xa bờ, dài ngày, lợi dụng đường hàng hải quốc tế và cả vùng biển nước bạn, đi bằng hàng hải thiên văn, trà trộn vào những tàu thuyền của ngư dân hoạt động ven biển để cập bến an toàn, đưa vũ khí, đạn dược, cán bộ, chiến sĩ vào chiến trường đúng lúc, đúng thời cơ, trong điều kiện vô cùng khó khăn, ác liệt. Mặc dù phải đối mặt với kẻ địch có ưu thế kiểm soát trên không, trên biển, nhưng với tinh thần quả cảm và trình độ nghiệp vụ tinh thông, cán bộ, chiến sĩ trên “Đoàn tàu không số” luôn làm tốt công tác tổ chức, chỉ huy, hiệp đồng, kết hợp chiến thuật với kỹ thuật; bảo đảm thông tin liên lạc thông suốt giữa sở chỉ huy với tàu, giữa tàu với các bến bãi, v.v. Trong suốt 14 năm (1961 - 1975), cán bộ, chiến sĩ Đoàn 759 (Đoàn 125), Quân chủng Hải quân đã lập nên những kỳ tích anh hùng trong những hoàn cảnh cực kỳ khó khăn, ác liệt. Hàng trăm lượt tàu ra khơi, về đích; hàng ngàn tấn vũ khí, khí tài, hàng hóa, thuốc chữa bệnh; hàng ngàn cán bộ, chiến sĩ từ hậu phương lớn đưa vào tiền tuyến lớn, đáp ứng kịp thời sức người, sức của cho chiến trường miền Nam trong những năm tháng ác liệt của chiến tranh. Con đường vận chuyển trên biển trở thành một kỳ tích, huyền thoại, góp phần cùng quân và dân cả nước đánh bại các chiến lược: “Chiến tranh đặc biệt”, “Chiến tranh cục bộ”, “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ và làm nên thắng lợi của Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước (1975).

Đất nước thống nhất, cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ trọng tâm của Hải quân nhân dân Việt Nam là bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo, thềm lục địa thiêng liêng của Tổ quốc. Thực hiện nhiệm vụ trong bối cảnh mới, Hải quân nhân dân Việt Nam đã nỗ lực phấn đấu, chấp hành nghiêm mệnh lệnh và tổ chức thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ, từng bước xây dựng, hoàn thiện thế bố trí chiến lược trên biển, đảo. Lực lượng vận tải quân sự đường biển của Hải quân cũng có bước phát triển nhanh chóng cả về tổ chức, biên chế, quân số, vũ khí, trang bị, luôn phát huy truyền thống của “Đoàn tàu không số” năm xưa, vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, quyết tâm hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ vận chuyển, đáp ứng yêu cầu xây dựng thế trận phòng thủ các tuyến biển, đảo vững chắc. Trước những diễn biến hết sức phức tạp trên biển, cán bộ, chiến sĩ vận tải Hải quân luôn mưu trí, sáng tạo, thực hiện đúng đối sách, xử lý linh hoạt, chuẩn xác các tình huống, bảo vệ chủ quyền, giữ vững môi trường ổn định trên các vùng biển, đảo, thềm lục địa của Tổ quốc.

Đường Hồ Chí Minh trên biển đi vào lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam ở thế kỷ XX như một thiên anh hùng ca bất tử, một chiến công chói lọi trên mặt trận chi viện chiến lược trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; đồng thời, thể hiện nét độc đáo của nghệ thuật quân sự Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh. Thực hiện quyết tâm chiến lược của Đảng mở đường vận chuyển chi viện cho chiến trường miền Nam thời kỳ chiến tranh ác liệt, lực lượng vận tải quân sự đường biển đã góp phần làm rạng rỡ truyền thống vẻ vang của Hải quân nhân dân Việt Nam anh hùng: 1. Trung thành vô hạn với Đảng, với Tổ quốc, với chế độ xã hội chủ nghĩa và Nhân dân; nêu cao ý chí quật cường, dũng cảm; khát vọng độc lập, tự do và niềm tin vào thắng lợi cuối cùng; sẵn sàng xả thân chiến đấu hy sinh để hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao. 2. Phát huy sức mạnh tổng hợp, chỉ huy tập trung thống nhất, hiệp đồng chặt chẽ với các lực lượng và chính quyền nhân dân các địa phương và bạn bè quốc tế để hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao. 3. Nêu cao ý thức độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường; đoàn kết, thống nhất, kỷ luật nghiêm minh; nắm vững khoa học - kỹ thuật; khắc phục khó khăn, phá thế bao vây của địch; linh hoạt, mưu trí, sáng tạo, liên tục tiến công, quyết chiến, quyết thắng; tìm ra nhiều phương thức vận chuyển có hiệu quả cho cách mạng miền Nam. Truyền thống đó luôn được gìn giữ, bồi đắp và phát huy, làm cho tinh thần, ý chí, quyết tâm cao độ của chủ nghĩa anh hùng cách mạng từ lớp lớp cán bộ, chiến sĩ “Đoàn tàu không số” năm xưa luôn tỏa sáng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.

Trong những năm tới, tình hình thế giới, khu vực tiếp tục có những diễn biến phức tạp, khó lường; hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, các nước lớn vẫn sẽ chi phối các quan hệ quốc tế; chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, khủng bố, bất ổn chính trị - xã hội vẫn diễn ra ở nhiều nơi; tranh chấp chủ quyền, lãnh thổ, biển, đảo, ngày càng gay gắt; Hiệp hội các nước ASEAN tuy còn nhiều khó khăn, thách thức nhưng tiếp tục giữ vai trò quan trọng trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương và trên phạm vi toàn thế giới. Những thành tựu, kinh nghiệm của công cuộc đổi mới đã tạo ra cho đất nước ta thế và lực mới, sức manh tổng hợp lớn hơn nhiều so với trước. Tuy nhiên, đất nước phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, các thế lực thù địch, phản động tiếp tục tăng cường chống phá Đảng, Nhà nước và đất nước ta bằng những âm mưu, thủ đoạn hết sức tinh vi, xảo quyệt; tác động của những thách thức an ninh phi truyền thống, nhất là đại dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, khó lường, gây ra những khó khăn mới cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo, thềm lục địa của Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định trên các vùng biển, đảo đặt ra những yêu cầu mới, đòi hỏi toàn quân cần tiếp tục quán triệt sâu sắc, thực hiện hiệu quả phương châm: “Kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, biển, đảo, vùng trời; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước”1 mà Đại hội XIII của Đảng đã xác định, gắn với giữ gìn và phát huy truyền thống của “Đoàn tàu không số” năm xưa. Trong đó, tập trung vào một số nội dung cơ bản sau:

Trước hết, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đối với nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Cần thống nhất nhận thức rằng: chủ quyền biển, đảo và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc là thiêng liêng, bất di bất dịch, không thể bị xâm phạm, đánh đổi và nhân nhượng; biển, đảo có yên thì đất liền mới vững, đất nước mới ổn định, phát triển. Nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo phải quán triệt phương châm: “kiên định nguyên tắc chiến lược, linh hoạt về sách lược”; mạnh mẽ, kiên quyết trong đấu tranh, song cũng phải hết sức linh hoạt, mềm dẻo trong xử lý các tình huống; lấy bảo vệ vững chắc chủ quyền, lợi ích quốc gia, dân tộc và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để đất nước phát triển làm mục tiêu tối thượng. Đó là trách nhiệm, nghĩa vụ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, nòng cốt là các lực lượng vũ trang làm nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo (Hải quân, Phòng không - Không quân, Biên phòng, Cảnh sát biển, Kiểm ngư, dân quân tự vệ biển,...). Quán triệt sâu sắc tinh thần đó, cấp ủy, chỉ huy, người đứng đầu cơ quan, đơn vị, địa phương, nhất là các địa phương có biển tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo làm tốt công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức, ý thức, trách nhiệm, nghĩa vụ công dân đối với việc bảo vệ chủ quyền biển, đảo; làm cho cán bộ, đảng viên, nhân dân và các lực lượng làm nhiệm vụ trên biển nắm vững chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về biển, đảo; trọng tâm là: Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, Luật Biển Việt Nam, Chiến lược phát triển bền vững Kinh tế Biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045,... phấn đấu đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định trên các vùng biển, đảo, góp phần xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, thấy được tính chất phức tạp trong việc tranh chấp chủ quyền biển, đảo hiện nay để xác định trách nhiệm, củng cố niềm tin, khơi dậy lòng tự hào, tự tôn, truyền thống, ý chí kiên cường, bất khuất của dân tộc; phẩm chất cao đẹp “Bộ đội Cụ Hồ”; tinh thần quả cảm của người chiến sĩ “Đoàn tàu không số” năm xưa, cùng chung sức, đồng lòng bảo vệ biển, đảo Tổ quốc. Các lực lượng làm nhiệm vụ trên biển phải luôn nêu cao ý chí quyết tâm “còn người, còn biển, đảo”, “một tấc không đi, một li không rời”; không quản ngại gian khổ, hiểm nguy, kiên cường bám trụ nơi “đầu sóng, ngọn gió”, đêm ngày tuần tra, kiểm soát, khẳng định, bảo vệ chủ quyền, giữ bình yên biển, đảo, thực sự là điểm tựa tin cậy cho ngư dân yên tâm vươn khơi, bám biển, phát triển kinh tế. Nêu cao ý thức độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường; chủ động, sáng tạo trong công tác; chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho bộ đội; làm chủ vũ khí, trang bị kỹ thuật, nhất là vũ khí mới, hiện đại, tạo sức mạnh tổng hợp bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc.

Thứ hai, tập trung xây dựng lực lượng làm nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo vững mạnh, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Trong đó, đặc biệt quan tâm xây dựng Hải quân, Phòng không - Không quân, Cảnh sát biển “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại”; Bộ đội Biên phòng vững mạnh toàn diện; lực lượng Đặc công nước tinh nhuệ, lực lượng Kiểm ngư vững mạnh; dân quân tự vệ biển vững mạnh, rộng khắp,... đảm bảo các lực lượng này có chất lượng tổng hợp, trình độ sẵn sàng chiến đấu cao, đủ sức hoàn thành tốt nhiệm vụ quản lý và bảo vệ chủ quyền biển, đảo trong mọi tình huống. Cán bộ, chiến sĩ làm nhiệm vụ trên biển phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành tuyệt đối với Đảng, Tổ quốc và Nhân dân; tăng cường tuần tra, kiểm soát thực thi pháp luật trên biển và sẵn sàng chiến đấu cao; nêu cao tinh thần khắc phục khó khăn, chịu đựng gian khổ, kiên định, mưu trí, sáng tạo, sẵn sàng chấp nhận hy sinh, bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo, thềm lục địa, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định trên các vùng biển, đảo của Tổ quốc. Để hoàn thành trọng trách được giao, việc tổ chức biên chế các lực lượng phải có cơ cấu hợp lý, cân đối, đồng bộ theo hướng tinh, gọn, mạnh, sức cơ động cao; có đủ thành phần lực lượng tác chiến tại chỗ, lực lượng cơ động trên biển và khả năng tác chiến trên các vùng biển. Đồng thời, nghiên cứu, điều chỉnh bố trí các lực lượng cho phù hợp với thế trận tác chiến phòng thủ biển, đảo, chức năng, nhiệm vụ, yêu cầu của Chiến lược phát triển kinh tế biển và điều kiện địa hình, khí hậu, thủy văn ở từng vùng, từng khu vực cụ thể trên biển; hình thành thế bố trí lực lượng quốc phòng tổng thể trên biển, đảo trong thời bình và có phương án bổ sung, phát triển theo yêu cầu nhiệm vụ thời chiến. Cùng với đó, cần quan tâm đến công tác bảo đảm vũ khí, trang bị cho từng lực lượng; bên cạnh việc khai thác, sử dụng thành thạo các loại vũ khí, trang bị kỹ thuật hiện có, cần tích cực đầu tư nghiên cứu, cải tiến, mua sắm mới một số loại vũ khí hiện đại, phù hợp với điều kiện của đất nước và yêu cầu nhiệm vụ. Đẩy mạnh công tác huấn luyện, diễn tập quân sự, nghiên cứu phát triển phương thức, nghệ thuật tác chiến, nhất là tác chiến hiệp đồng binh chủng, quân chủng và các lực lượng khác, không ngừng nâng cao khả năng làm chủ trong quản lý, bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc. Đồng thời, các lực lượng phải tích cực tham gia phát triển kinh tế quốc phòng trên biển, đảo ở lĩnh vực thế mạnh, ưu tiên những vùng biển, đảo xa, tiền tiêu, còn nhiều khó khăn, góp phần tạo thế và lực cho đất nước trong quá trình bảo vệ và khai thác tiềm năng của biển.

Thứ ba, tăng cường thế trận quốc phòng toàn dân trên biển. Thế trận quốc phòng toàn dân trên biển là một bộ phận thế trận quốc phòng toàn dân của cả nước; đồng thời, là bộ phận quan trọng của thế trận phòng thủ chung của đất nước, nên việc xây dựng, củng cố và tăng cường là cấp thiết và mang tính đặc thù. Trước hết, cần tập trung xây dựng, củng cố thế bố trí lực lượng, phương tiện quốc phòng trên biển, đảo của Việt Nam theo một ý định chiến lược thống nhất, nhằm phát huy cao độ sức mạnh quốc phòng của đất nước trên hướng biển, tạo thế phòng ngừa, ngăn chặn âm mưu lấn chiếm và sẵn sàng đánh bại mọi hành động tiến công xâm lược nước ta từ hướng biển. Trong quá trình xây dựng, phải xác định được các vùng chiến lược, trọng tâm, trọng điểm, tầm quan trọng của từng vùng về kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh; từ đó, nghiên cứu, xây dựng kế hoạch bố trí, triển khai lực lượng, phương tiện, thiết bị chiến trường, công trình quốc phòng cho phù hợp với điều kiện địa hình, đối tượng tác chiến, mục tiêu, yêu cầu nhiệm vụ để tạo lập thế trận vững chắc. Việc bố trí phải đảm bảo sự cân đối, hợp lý để từng lực lượng phát huy được sở trường, thế mạnh riêng; khả năng phối hợp, hiệp đồng, hỗ trợ, bổ sung cho nhau trong quản lý và bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Đồng thời, phải hết sức coi trọng xây dựng khu vực phòng thủ các tỉnh, thành phố ven biển, đặc biệt là xây dựng các đảo, quần đảo, huyện đảo trở thành các pháo đài phòng thủ kiên cố, liên hoàn, vững chắc, có chiều sâu, nhiều tầng, nhiều tuyến từ biển vào bờ. Quán triệt quan điểm mỗi bước phát triển kinh tế biển phải là một bước tăng cường tiềm lực, sức mạnh quốc phòng của đất nước trên biển, cần kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế trên hướng biển; coi đó là một mặt trọng yếu, phương châm chiến lược trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân trên biển. Thường xuyên chăm lo đầu tư xây dựng hậu phương, căn cứ hậu cần, kỹ thuật chiến lược vững mạnh; nâng cao hiệu quả và năng lực vận tải biển nhằm cung cấp đầy đủ, kịp thời cơ sở vật chất, hậu cần, vũ khí, trang bị cho các lực lượng làm nhiệm vụ trên biển, đảo. Đặc biêt, phải coi trọng yếu tố chính trị - tinh thần, xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc trong củng cố, tăng cường thế trận quốc phòng toàn dân trên biển, nhằm khơi dậy, huy động sức mạnh của toàn dân cho sự nghiệp phát triển kinh tế biển, quản lý và bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo của đất nước.

Thứ tư, thực hiện tốt công tác đối ngoại quốc phòng. Sức mạnh bảo vệ chủ quyền biển, đảo là sức mạnh tổng hợp của nhiều yếu tố và là sự kết hợp chặt chẽ trên tất cả các mặt trận, các lĩnh vực hoạt động: quốc phòng, an ninh, kinh tế, chính trị, ngoại giao, pháp lý; trong đó, đối ngoại quốc phòng có vai trò hết sức quan trọng. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, muốn bảo vệ chủ quyền biển, đảo, bên cạnh việc phát huy tinh thần tự lực, tự cường phải biết kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, nêu cao tính chính nghĩa, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của quốc tế, kiên quyết, kiên trì đấu tranh, tăng cường hợp tác quốc tế, “tạo sự đan xen lợi ích”, “vừa hợp tác, vừa đấu tranh”. Để thực hiện tốt công tác đối ngoại quốc phòng, các lực lượng cần tiếp tục quán triệt và thực hiện nghiêm đường lối, chủ trương, chính sách đối ngoại quốc phòng của Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng, nhất là Nghị quyết số 22-NQ/TW, ngày 10/4/2013 của Bộ Chính trị (khóa XI) “về hội nhập quốc tế”, Nghị quyết số 806-NQ/QUTW, ngày 31/12/2013 của Quân ủy Trung ương “về hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng đến năm 2020 và những năm tiếp theo”. Thực hiện nhất quán phương châm vừa hợp tác, vừa đấu tranh; kiên định, kiên trì nguyên tắc chiến lược; linh hoạt, mềm dẻo về sách lược, làm cho đối ngoại quốc phòng trở thành công cụ hữu hiệu, kênh ngoại giao quan trọng, trực tiếp hỗ trợ cho ngoại giao Nhà nước, bảo đảm thiết thực, hiệu quả, phù hợp thực tiễn đất nước, khả năng của từng lực lượng làm nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo và đặc điểm của từng đối tác. Hoạt động đối ngoại quốc phòng song phương và đa phương phải hướng vào mục tiêu bảo vệ vững chắc chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán và lợi ích quốc gia dân tộc trên biển, ngăn ngừa chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để đất nước phát triển và hội nhập. Đồng thời, chủ động nắm, dự báo sớm tình hình, nhất là sự điều chỉnh chiến lược, sách lược của hải quân các nước lớn và các nước trong khu vực; đề xuất sáng kiến duy trì an ninh, an toàn hàng hải, hòa bình, ổn định ở Biển Đông, cũng như phối hợp hoạt động ứng phó với các thách thức an ninh phi truyền thống, hỗ trợ nhân đạo, bảo vệ môi trường biển, v.v. Từ đó, giúp Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng tham mưu, đề xuất với Đảng, Nhà nước chủ trương, giải pháp lãnh đạo, chỉ đạo công tác đối ngoại quốc phòng cũng như xử lý các vấn đề trên biển; tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của dư luận quốc tế, không để bị động, bất ngờ hoặc bị cô lập về ngoại giao trong giải quyết những vấn đề liên quan đến biển, đảo, nhất là Biển Đông.

Kỷ niệm 60 năm mở Đường Hồ Chí Minh trên biển là dịp để chúng ta ôn lại truyền thống anh hùng của Quân đội nhân dân Việt Nam nói chung, Hải quân nhân dân Việt Nam nói riêng trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Đồng thời, coi đó là một động lực để cán bộ, chiến sĩ quân đội tiếp tục phát huy, phấn đấu, rèn luyện, nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu, xứng đáng với vai trò nòng cốt cùng toàn dân bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo, thềm lục địa trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.

Đại tướng, TS. PHAN VĂN GIANG, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng
_____________

1 - ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập 1, Nxb CTQGST, H. 2021, tr. 48.

Ý kiến bạn đọc (0)

Các tin, bài đã đưa

Phát huy vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong chiến lược xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và thực hiện khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc 21/11/2024

Quân đội nhân dân Việt Nam phát huy sức mạnh tổng hợp, xây dựng tiềm lực chính trị, tinh thần và tiềm lực quân sự, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới 21/11/2024

Bộ trưởng Bộ Quốc phòng chúc mừng các nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục trong Quân đội 19/11/2024

Những bài học hay, kinh nghiệm quý nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả công tác Đảng, công tác chính trị 19/11/2024

Công tác phối hợp giữa Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam và Hội đồng Lý luận Trung ương trong nghiên cứu, phát triển lý luận về quân sự, quốc phòng 18/11/2024

Vai trò của Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam đối với công tác tuyên giáo của Đảng 18/11/2024

Công tác đảng, công tác chính trị trong 80 năm xây dựng, chiến đấu, trưởng thành của Quân đội nhân dân Việt Nam 18/11/2024

Sự kiện Tập kết ra Bắc đã trở thành biểu tượng của lòng yêu nước 17/11/2024

Đảm bảo trang trọng, đúng tầm vóc, tạo ấn tượng mạnh mẽ 15/11/2024

Lưu giữ, trao truyền giá trị danh hiệu Bộ đội Cụ Hồ cho hôm nay và mai sau 14/11/2024

Quân đội nhân dân Việt Nam phát huy sức mạnh tổng hợp, xây dựng tiềm lực chính trị, tinh thần và tiềm lực quân sự, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới
Xây dựng tiềm lực chính trị, tinh thần, tiềm lực quân sự là vấn đề chiến lược và hệ trọng; là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân và cả hệ thống chính trị, trong đó Quân đội nhân dân là nòng cốt.