Nghiên cứu - Tìm hiểu Nghiên cứu - Trao đổi

QPTD -Thứ Năm, 05/12/2013, 16:41 (GMT+7)
Những điểm mới trong Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (năm 2013)

Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 trình Kỳ họp thứ 6 (Quốc hội khóa XIII) xem xét thông qua đã được chỉnh lý, sửa đổi, bổ sung cả về bố cục, kỹ thuật lập hiến và nội dung trong tất cả các chương, điều. Theo đó, bản Hiến pháp mới là sự tiếp tục kế thừa những nguyên tắc, nội dung cơ bản, tư tưởng cốt lõi của Hiến pháp năm 1992 và có những bổ sung quan trọng, đáp ứng yêu cầu phát triển trong giai đoạn mới của cách mạng Việt Nam.

1. Bối cảnh nghiên cứu sửa đổi Hiến pháp năm 1992

Hiến pháp năm 1992 được ban hành trong bối cảnh những năm đầu thực hiện công cuộc đổi mới đất nước do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra (năm 1986) và để thể chế hóa Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH năm 1991. Đây là bản Hiến pháp đã tạo cơ sở chính trị - pháp lý quan trọng cho việc thực hiện công cuộc đổi mới ở nước ta. Qua 20 năm thực hiện Hiến pháp năm 1992, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay, trước tình hình mới, cần phải xác định mục tiêu, định hướng phát triển toàn diện, bền vững đất nước. Vì vậy, Đảng ta đề ra chủ trương: “Khẩn trương nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001) phù hợp với tình hình mới”1.

Thực hiện chủ trương tại Đại hội XI của Đảng và Nghị quyết Hội nghị Trung ương 2 (khóa XI), Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã báo cáo Quốc hội khóa XIII việc triển khai nhiệm vụ nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992. Theo đó, Quốc hội đã ra Nghị quyết về việc thành lập Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 và giao nhiệm vụ cho Ủy ban nghiên cứu, xây dựng Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ của Đảng, Nhà nước và với tinh thần trách nhiệm cao của mỗi công dân Việt Nam, việc tổng kết 20 năm thi hành Hiến pháp năm 1992 đã được triển khai nghiêm túc; qua đó, đề xuất những định hướng cơ bản trong việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 và bản Dự thảo sửa đổi Hiến pháp đã được xây dựng. Trên cơ sở những định hướng cơ bản và trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 4 để thảo luận, cho ý kiến lần đầu, bản Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã được công bố lấy ý kiến rộng rãi trong các tầng lớp nhân dân từ ngày 02-01-2013 đến 30-3-2013 và tiếp tục cho đến 30-9-2013. Trải qua 3 kỳ họp (lần thứ 4, 5, 6 - Quốc hội khóa XIII), trên cơ sở tiếp thu ý kiến của nhân dân, Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã được Quốc hội dành một lượng thời gian lớn để thảo luận. Với tinh thần dân chủ, khoa học, sự quan tâm của các cơ quan, tổ chức, các cấp, các ngành và đông đảo các tầng lớp nhân dân, quá trình sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 đã diễn ra nghiêm túc, đúng tiến độ và được Quốc hội khóa XIII thông qua.

Bản Hiến pháp mới ra đời đã đáp ứng được mục tiêu, yêu cầu đặt ra qua tổng kết 20 năm thi hành Hiến pháp năm 1992 và các đạo luật có liên quan; phản ánh được ý chí, nguyện vọng của nhân dân. Đồng thời, bám sát Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH năm 1991 (bổ sung, phát triển năm 2011), nghị quyết của các kỳ Đại hội Đảng và các nghị quyết, kết luận của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị về mục đích, yêu cầu, những quan điểm cơ bản và định hướng lớn của việc sửa đổi Hiến pháp năm 1992, như: kế thừa những nội dung của Hiến pháp năm 1992 và của các bản Hiến pháp trước đây còn phù hợp; chỉ sửa đổi, bổ sung những vấn đề thực sự cần thiết, những vấn đề đã rõ, được thực tiễn chứng minh là đúng, có đủ cơ sở, nhận được sự thống nhất cao và phù hợp với tình hình mới. Hiến pháp mới là sự kết tinh trí tuệ, tâm huyết của nhân dân, của các chuyên gia, đại biểu Quốc hội. Quá trình sửa đổi Hiến pháp đã có hơn 27.000 hội nghị, hội thảo chuyên sâu được tổ chức và hơn 26 triệu lượt ý kiến góp ý. Từ đó, những gì không được tiếp thu đều được giải thích rõ ràng để người dân hiểu rõ về ý tưởng cũng như cách thể hiện trong nội dung Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 của Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp. Đây là lần sửa đổi mang ý nghĩa lớn, quyết định nhiều vấn đề quan trọng, bảo đảm tính ổn định lâu dài của bản Hiến pháp, cả về hình thức và nội dung.

2. Những điểm mới của Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (năm 2013)

Về hình thức, Hiến pháp mới có 11 chương, 120 điều; so với Hiến pháp năm 1992, giảm 1 chương, 27 điều; giữ nguyên 7 điều; sửa đổi, bổ sung 101 điều và bổ sung mới 12 điều. Để bảo đảm tính ổn định lâu dài của Hiến pháp và nâng cao chất lượng kỹ thuật lập hiến, Hiến pháp mới đã có một số thay đổi về mặt kết cấu. Chương I, xây dựng trên cơ sở viết gọn lại tên Chương I của Hiến pháp năm 1992 thành “Chế độ chính trị” và đưa các quy định về Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca, Thủ đô, ngày Quốc khánh tại Chương XI của Hiến pháp năm 1992 vào Chương này; vì đây là những nội dung quan trọng gắn liền với chế độ chính trị của quốc gia. Chương II, được xây dựng trên cơ sở sửa đổi, bổ sung và bố cục lại Chương V - Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong Hiến pháp năm 1992 thành: “Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân” để khẳng định giá trị, vai trò quan trọng của quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp. Trên cơ sở lồng ghép Chương II: Chế độ kinh tế và Chương III: Văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ của Hiến pháp năm 1992 thành Chương III: “Kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường”, nhằm thể hiện sự gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa phát triển kinh tế, bảo đảm công bằng xã hội với phát triển văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và bảo vệ môi trường. Chương VIII, được đổi vị trí từ Chương X: Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân của Hiến pháp năm 1992 thành: “Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân” để thể hiện sự gắn kết giữa các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Chương IX: Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân của Hiến pháp năm 1992 được đổi tên thành Chương: “Chính quyền địa phương”, để làm rõ hơn tính chất của hệ thống cơ quan công quyền ở địa phương trong mối quan hệ với trung ương, thể hiện tính gắn kết, mối quan hệ chặt chẽ giữa Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân trong chỉnh thể của chính quyền địa phương. Nội hàm của chương này không chỉ quy định về Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, mà còn quy định về việc phân chia đơn vị hành chính lãnh thổ và mối quan hệ giữa cơ quan nhà nước với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể xã hội ở địa phương. Chương X, là chương mới, quy định về một số thiết chế hiến định độc lập gồm Hội đồng bầu cử quốc gia và Kiểm toán nhà nước nhằm hoàn thiện tổ chức bộ máy nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta.

Về nội dung, Hiến pháp sửa đổi đã có những điểm mới:

Một là, trong Lời nói đầu, trên cơ sở kế thừa Lời nói đầu của Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp mới được sửa đổi theo hướng khái quát, cô đọng và súc tích hơn về truyền thống, lịch sử đất nước, dân tộc, lịch sử lập hiến của nước ta; nhiệm vụ của cách mạng trong giai đoạn mới; mục tiêu xây dựng đất nước và thể hiện mạnh mẽ hơn ý nguyện của nhân dân ta trong việc ban hành và sửa đổi Hiến pháp. Theo đó, “Nhân dân Việt Nam xây dựng, thi hành Hiến pháp này vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Hai là, chủ thuyết “chủ quyền nhân dân” được thể hiện rõ và nhất quán trong Hiến pháp mới. Chủ quyền nhân dân là một trong những nguyên tắc đặc biệt quan trọng của Hiến pháp - bản “khế ước xã hội” của nhân dân - vì thế, trước hết, nó phải thể hiện rõ điều này. Toàn văn Hiến pháp mới cho thấy rõ tư tưởng về chủ quyền nhân dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Ngay ở Chương I, có 06 điều (từ Điều 1 đến Điều 6) khẳng định về chủ quyền nhân dân; chỉ rõ phương thức để nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước là bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước. Chương II, bao gồm các quy định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân, là một bước cụ thể hóa về chủ thuyết chủ quyền nhân dân khi bổ sung thêm các quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân, như: quyền được có quốc tịch, quyền được bảo đảm an sinh xã hội, quyền được thụ hưởng giá trị văn hoá, được bảo vệ trong tiêu dùng,... Đồng thời, Hiến pháp mới khẳng định: “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng” (Khoản 2, Điều 14). Bên cạnh đó, Hiến pháp mới cũng nêu rõ cách thức để nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình thông qua các quyền chính trị cơ bản, như: nhân dân có quyền bãi nhiệm các đại biểu Quốc hội do họ bầu ra, đồng thời có quyền biểu quyết về những vấn đề trưng cầu ý dân, v.v.

Ba là, Hiến pháp mới quy định rõ hơn nguyên tắc phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước. Kế thừa bản chất và mô hình tổng thể của bộ máy nhà nước ta theo Hiến pháp năm 1992, thể chế hóa các quan điểm về xây dựng Nhà nước pháp quyền,  Hiến pháp mới xác định rõ hơn chức năng của các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp và điều chỉnh lại một số nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan này. Đối với các cơ quan ở Trung ương, Hiến pháp mới khẳng định: Quốc hội là cơ quan lập pháp; Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính cao nhất, thực hiện quyền hành pháp; Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp; quy định cụ thể thẩm quyền, trách nhiệm của Chủ tịch nước trong hoạt động lập pháp, thống lĩnh các lực lượng vũ trang, Chủ tịch Hội đồng quốc phòng và an ninh, đối nội, đối ngoại. Đồng thời, xác định rõ trách nhiệm của tập thể Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các thành viên; quy định về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân theo định hướng cải cách tư pháp. Đối với việc phân cấp giữa Trung ương và chính quyền địa phương, để tạo cơ sở hiến định cho việc đổi mới tổ chức chính quyền địa phương, Hiến pháp mới không quy định cụ thể về tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi cấp chính quyền địa phương mà quy định theo hướng: “Chính quyền địa phương được tổ chức và bảo đảm việc thi hành Hiến pháp, pháp luật tại địa phương; quyết định các vấn đề của địa phương do luật định; chịu sự kiểm tra, giám sát của cơ quan nhà nước cấp trên” (Khoản 1, Điều 112); “Nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương được xác định trên cơ sở phân định thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương và ở mỗi cấp chính quyền địa phương” (Khoản 2, Điều 112). Cách quy định như vậy để tạo cơ sở cho việc tiếp tục đổi mới tổ chức chính quyền địa phương và sẽ được quy định cụ thể trong luật.

Bốn là, nội dung về kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường được thể hiện theo hướng ngắn gọn, rõ ràng và mang tính nguyên tắc, bảo đảm tính ổn định lâu dài của bản Hiến pháp. Hiến pháp mới nêu rõ nguyên tắc quản lý kinh tế của Nhà nước ta là: xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ; chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện CNH,HĐH đất nước gắn với phát triển nền kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường; khẳng định vai trò của Nhà nước trong việc điều tiết nền kinh tế thông qua các chính sách cụ thể chứ không can thiệp sâu vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Các tổ chức, cá nhân được tự do kinh doanh, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với Nhà nước theo quy định của pháp luật. Nhà nước thực hiện chính sách chống độc quyền và bảo đảm môi trường cạnh tranh lành mạnh trong kinh doanh. Tài sản hợp pháp của tổ chức, cá nhân được Nhà nước thừa nhận, bảo hộ và không bị quốc hữu hoá; trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh hoặc vì lợi ích quốc gia, tình trạng khẩn cấp, phòng chống thiên tai, Nhà nước trưng dụng có bồi thường tài sản của cá nhân, tổ chức theo giá thị trường, thể thức trưng dụng theo luật định.

Năm là, bổ sung các thiết chế hiến định độc lập. Để đảm bảo thực thi chủ quyền nhân dân, thực hiện tốt cơ chế phân công, phối hợp, kiểm soát quyền lực, hoàn thiện bộ máy nhà nước pháp quyền XHCN, Hiến pháp mới đã bổ sung 2 điều (tại Chương X), quy định về thiết chế hiến định độc lập, gồm Hội đồng bầu cử quốc gia và Kiểm toán nhà nước. Về thiết chế Hội đồng bầu cử quốc gia, thực hiện Kết luận của Hội nghị Trung ương 5 (khóa XI) về việc “tăng cường hình thức dân chủ trực tiếp theo hướng hoàn thiện chế độ bầu cử”, Hiến pháp mới quy định về Hội đồng bầu cử quốc gia nhằm mục đích hoàn thiện chế độ bầu cử cũng như thực hiện nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, tạo cơ chế để nhân dân thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của mình bằng hình thức dân chủ trực tiếp là việc bầu cử, ứng cử và hình thức dân chủ đại diện thông qua đại biểu dân cử. Hội đồng bầu cử quốc gia tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội, chỉ đạo và hướng dẫn công tác bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp. Việc thành lập Hội đồng bầu cử quốc gia đồng thời góp phần bảo đảm tính khách quan trong chỉ đạo tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân. Về thiết chế Kiểm toán nhà nước, Hiến pháp mới quy định vai trò, địa vị pháp lý và chức năng của Kiểm toán nhà nước để tăng cường vị thế, trách nhiệm của cơ quan Kiểm toán nhà nước. Theo đó, đây là cơ quan do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, có chức năng kiểm toán việc quản lý, sử dụng nguồn lực tài chính và tài sản quốc gia. Hiến pháp chỉ quy định về việc Quốc hội bầu Tổng Kiểm toán nhà nước, còn những vấn đề cụ thể về tổ chức, nhiệm vụ và quyền hạn của Kiểm toán nhà nước sẽ do luật điều chỉnh.

Có thể nói, với những điểm mới được xác định, bản Hiến pháp sửa đổi năm 2013 được Quốc hội thông qua đã thể hiện quan điểm đổi mới cũng như quyết tâm chính trị của Đảng, Nhà nước ta trong việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN; bảo đảm sự đồng bộ cả về kinh tế và chính trị, xây dựng Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, bảo đảm tốt hơn quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; xây dựng và bảo vệ đất nước; tích cực và chủ động hội nhập quốc tế,...  Vì vậy, đây là một bản Hiến pháp mới - bản Hiến pháp thứ 5 của nước ta với tên gọi: Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, có hiệu lực thi hành từ ngày 01-01-2014.

Để Hiến pháp mới đi vào cuộc sống, cần khẩn trương cụ thể hóa các nguyên tắc của Hiến pháp thành các văn bản luật. Đó là công việc hệ trọng cần phải được triển khai sớm, với trách nhiệm cao của các cơ quan nhà nước và sự tham gia tích cực của nhân dân cũng như cả hệ thống chính trị ở nước ta.

PGS, TS. ĐINH XUÂN THẢO

Đại biểu Quốc hội khóa XIII, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Lập pháp
________________

1 - ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 247.

Ý kiến bạn đọc (0)

Giá trị nhân văn Hồ Chí Minh - nền tảng của sự phát triển xã hội
Nhân kỷ niệm 125 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, Phó giáo sư, Tiến sỹ Phạm Ngọc Anh, Viện Hồ Chí Minh, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh có bài viết "Giá trị nhân văn Hồ Chí Minh - nền tảng của sự phát triển xã hội" khẳng định, với bản chất và đặc trưng phổ quát, giá trị cơ bản của tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh là nền tảng phát triển xã hội, kiến tạo hệ thống quan hệ xã hội mang đậm bản chất người và giá trị làm người chân chính.