Thứ Năm, 21/11/2024, 18:21 (GMT+7)
Đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống Quán triệt, thực hiện nghị quyết
Xác định đúng đối tác, đối tượng là vấn đề quan trọng, căn cứ chủ yếu để đề ra chính sách đối nội, đối ngoại cùng với kế sách xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đây cũng là một quan điểm chỉ đạo của Đảng trong “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”.
Đánh giá đúng tình hình thế giới, khu vực và trong nước, kết hợp với phân tích, dự báo xu hướng phát triển trong thời gian tới, Nghị quyết 28-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới đã xác định rõ mục tiêu, phương châm, quan điểm chỉ đạo và nội dung, giải pháp để thực hiện; trong đó, việc xác định đối tác, đối tượng được đặc biệt coi trọng.
Nếu như trước đây, trong Nghị quyết Trung ương 8 (khóa IX) vấn đề đối tác, đối tượng được Đảng ta xác định như một nguyên tắc và nằm trong mối quan hệ giữa thuận lợi và hạn chế, thách thức, thì tại Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) việc xác định đối tác, đối tượng được Đảng ta khái quát thành một trong những quan điểm cơ bản xuyên suốt quá trình thực hiện Chiến lược bảo vệ Tổ quốc của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Theo đó, tại quan điểm thứ sáu của Nghị quyết, Đảng ta đã xác định “Vận dụng đúng đắn quan điểm về đối tác, đối tượng: Những ai tôn trọng độc lập chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác; bất kỳ thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng của chúng ta”. Như vậy, với Nghị quyết Trung ương 8 (khóa IX), tuy nội hàm của đối tác, đối tượng không thay đổi, nhưng việc đưa nó trở thành một quan điểm chỉ đạo đã thể hiện sự đổi mới tư duy quan trọng của Đảng, phù hợp với điều kiện, bối cảnh và xu thế thời đại, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Điều này cũng phù hợp với một trong những mục tiêu xuyên suốt của Đảng và Nhà nước ta là, lấy giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước là mục tiêu cao nhất của cách mạng. Mặt khác, khi đề cập đến mối quan hệ biện chứng giữa đối tác và đối tượng, Nghị quyết Trung ương 8 (khóa IX) mới chỉ nêu ra tính hai mặt của “một số đối tác” tồn tại, đan xen trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Trong khi đó, Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) đã khẳng định tính hai mặt tồn tại, đan xen một cách phổ biến trong “mỗi đối tác” và “mỗi đối tượng”, đòi hỏi chúng ta phải có cái nhìn biện chứng khoa học để trong từng thời điểm cụ thể nhận biết rõ đâu là đối tác để tranh thủ hợp tác và đâu là đối tượng để đấu tranh. Đây là sự phát triển mới, nhìn nhận vấn đề linh hoạt hơn, tạo tiền đề, nền tảng để các cấp, các ngành, các lực lượng, các địa phương và toàn dân nêu cao tinh thần cảnh giác, vừa hợp tác, vừa đấu tranh trên tất cả các lĩnh vực. Với quan điểm chỉ đạo chiến lược đó, chúng ta đã có nhiều chủ trương, chính sách đúng đắn để “thêm bạn, bớt thù”, tăng cường sự hợp tác hữu nghị với các nước. Nhờ vậy, tranh thủ khai thác, phát huy được các mặt tích cực của các đối tác để phát triển kinh tế - xã hội, hạn chế được những mặt tiêu cực của đối tượng, góp phần bảo đảm sự ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội, tạo nền tảng vững chắc để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Hiện nay, Việt Nam đã có quan hệ đối tác chiến lược với hơn 20 quốc gia trên thế giới; trong đó có các nước lớn, các nước láng giềng, bạn bè truyền thống. Trong khi tăng cường quan hệ đối tác, chúng ta kiên trì giải quyết thỏa đáng các vấn đề nảy sinh, các tranh chấp, nhất là các tranh chấp trên Biển Đông bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở tuân thủ luật pháp quốc tế, nhất là Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, Tuyên bố về ứng xử của các bên trên Biển Đông (DOC), không để xảy ra xung đột, đối đầu, nhằm kiến tạo và củng cố môi trường hòa bình để phát triển đất nước; đồng thời, kiên quyết đấu tranh để giữ vững chủ quyền, lãnh thổ. Tuy nhiên, hiện nay nhận thức về đối tác, đối tượng trong hội nhập quốc tế, nhất là hội nhập quốc tế trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh còn bộc lộ một số hạn chế. Trong lúc tranh chấp chủ quyền biển, đảo đang là vấn đề nổi cộm, thì một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân có xu hướng chỉ quan tâm đến đối tượng có ý đồ và hành động xâm chiếm biển, đảo, mà xem nhẹ, chưa thấy hết sự nguy hại của đối tượng “diễn biến hòa bình” (DBHB) và thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, hoặc ngược lại. Cùng với đó, có bộ phận chỉ chú trọng đến đối tượng gây ra các thách thức an ninh truyền thống, coi nhẹ đối tượng gây ra các mối đe dọa an ninh phi truyền thống, thậm chí cho rằng chỉ có chủ nghĩa đế quốc mới thực hiện “DBHB”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Một bộ phận khác lại chưa nhận thức đầy đủ về sự cần thiết phải lựa chọn, xây dựng đối tác, chuyển hóa đối tượng thành đối tác trong quá trình hội nhập quốc tế. Từ nhận thức hạn chế, chưa đầy đủ, có thể dẫn đến hành động cực đoan, chủ quan, sơ hở, mất cảnh giác, phạm sai lầm, làm mất cơ hội hợp tác; dễ bị lợi dụng kích động, khoét sâu, phân hóa, chia rẽ, gây mất ổn định chính trị, làm suy yếu sức mạnh bảo vệ Tổ quốc, thậm chí tạo thời cơ cho các thế lực thù địch dễ bề can thiệp từ bên ngoài. Vì vậy, quán triệt sâu sắc, vận dụng đúng đắn, sáng tạo quan điểm về đối tác, đối tượng của Đảng vào thực tiễn hiện nay là vấn đề rất quan trọng, đòi hỏi phải triển khai nhiều giải pháp đồng bộ.
Trước hết, việc nhận thức và vận dụng quan điểm về đối tác, đối tượng phải được quán triệt và thực hiện một cách thường xuyên, nghiêm túc ở tất cả các cấp, các ngành, các lực lượng, các địa phương và toàn dân, bảo đảm không làm cản trở tới cơ hội hội nhập, hợp tác, nhưng cũng không mơ hồ, mất cảnh giác trong quan hệ với các đối tác. Tuy nhiên, việc xử lý các mối quan hệ đối tác, đối tượng đòi hỏi các cấp, các ngành xem xét trên quan điểm tổng thể, lấy lợi ích cơ bản, lâu dài của quốc gia, dân tộc làm nền tảng; không vì lợi ích cục bộ, trước mắt mà làm tổn hại đến lợi ích của đất nước. Để nhận diện đúng đối tác, đối tượng và sự chuyển hóa giữa chúng, cần coi trọng công tác nghiên cứu, dự báo chiến lược; kịp thời phát hiện cơ hội để khai thác; đồng thời, nhận rõ thách thức để hóa giải, đề phòng, không để rơi vào thế bị động, bất ngờ, đối đầu, bị cô lập.
Hai là, trong bối cảnh hiện nay, chúng ta cần nhận thức rõ và có đối sách để giải quyết các mối quan hệ giữa nguy cơ “DBHB” trong nước với các hoạt động xâm phạm chủ quyền lãnh thổ từ bên ngoài. Theo đó, “DBHB” gây mất ổn định chính trị trong nước là cơ hội để các thế lực có tham vọng xâm phạm chủ quyền lãnh thổ, biển đảo. Ngược lại, khi có xung đột vũ trang và hành động lấn chiếm biển, đảo là cơ hội để các thế lực thù địch lợi dụng kích động gây bạo loạn lật đổ, can thiệp xóa bỏ chế độ chính trị và thành quả cách mạng của nhân dân ta. Các nguy cơ này sẽ nghiêm trọng hơn nếu trong xử lý vấn đề đối tác, đối tượng phạm sai lầm, dẫn đến sự chuyển hóa ngược từ đối tác thành đối tượng, hoặc để các thế lực thù địch có tham vọng riêng thỏa hiệp xâm hại chủ quyền, lãnh thổ, lợi ích quốc gia và chế độ XHCN.
Ba là, đối tác, đối tượng là những vấn đề không dễ nhận biết. Nó có thể tồn tại trong cùng một chủ thể, hoặc đan xen ở các chủ thể khác nhau, khó có thể “gọi mặt”, “chỉ tên”. Song, đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, nhất là trong Chiến lược Quốc phòng, Chiến lược Quân sự,... cần xác định công khai hợp lý đối tượng theo phân cấp, ở thời điểm, tình huống thích hợp, không để lẫn lộn giữa chiến lược và sách lược, dẫn đến bị động, lúng túng trong xử lý.
Trên cơ sở nhiệm vụ và giải pháp của Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) chỉ đạo về đường lối đối ngoại và hội nhập quốc tế, hiện nay quan hệ giữa nước ta với các nước, các tổ chức và cá nhân trên thế giới, có thể phân chia thành các nhóm đối tác, như: đối tác chiến lược tin cậy, đối tác chiến lược toàn diện, đối tác toàn diện và đối tác chiến lược. Sự phân chia đó, là định hướng quan trọng để các cấp, các ngành, các lực lượng vận dụng đối sách thích hợp, dựa trên tư duy thực tế, linh hoạt mở rộng quan hệ đối tác, thu hẹp đối tượng; trong đó, cần đặc biệt quan tâm việc lựa chọn, xây dựng cho được “bạn chiến lược tin cậy” làm chỗ dựa vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Về đối tượng của cách mạng Việt Nam có thể phân chia theo các nhóm sau:
1. Đối tượng có âm mưu lật đổ chế độ XHCN, sử dụng đòn tiến công chính là “DBHB”, thúc đẩy nhanh quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” để thay đổi chế độ ta. Khi có điều kiện, thời cơ, nhất là khi ta phạm sai lầm trong xử lý các tình huống chiến lược, chúng sẽ kích động gây bạo loạn lật đổ, xung đột vũ trang hoặc chiến tranh, với các dạng thức mới: chiến tranh ủy nhiệm, chiến tranh thông tin, kinh tế, tài chính, chiến tranh mạng,... Với đối tượng này, chúng ta cần tiếp tục phát triển, mở rộng quan hệ đối tác toàn diện một cách chủ động, thận trọng, giữ đúng nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, không làm ảnh hưởng đến các nước khác; tận dụng mọi cơ hội mở rộng hợp tác trên các lĩnh vực có thể hợp tác, góp phần phát triển kinh tế, xã hội, tăng cường quốc phòng, an ninh.
2. Đối tượng có tham vọng về chủ quyền lãnh thổ, ngấm ngầm thực hiện âm mưu xâm lấn biên giới, biển, đảo thuộc chủ quyền lãnh thổ của ta. Họ công khai thực hiện “chiến lược biên giới mềm” nhằm kiềm chế, chi phối chính sách đối nội, đối ngoại, buộc ta phải đi vào quỹ đạo, nhượng bộ về chủ quyền, lợi ích quốc gia. Khi có thời cơ, có thể gây xung đột vũ trang, chiến tranh chiếm giữ lãnh thổ, chiếm đoạt tài nguyên của nước ta. Với đối tượng này, cần tranh thủ những điểm tương đồng, hạn chế bất đồng, tăng cường sự tin cậy về chính trị, dựa trên đối sách linh hoạt, thực tế, kiên quyết bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ, lợi ích quốc gia và chế độ XHCN.
3. Đối tượng do bị tác động của“DBHB” dẫn đến “tự chuyển hóa” có thể gây ra “biến động chính trị”, hoặc tự giác trở thành đồng minh của đối tượng có âm mưu lật đổ chế độ ta. Đối tượng này gồm: các phần tử thoái hoá biến chất, cơ hội chính trị, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, tham ô, lãng phí, quan liêu. Đây là lực lượng “giấu mặt”, có thể nằm trong các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội hòng chống phá từ bên trong. Với đối tượng này “cần phải kịp thời ngăn chặn, xử lý những kẻ chủ mưu, cầm đầu, ngoan cố” kết hợp với giáo dục, cảm hóa. Chủ động đấu tranh với âm mưu, hoạt động “DBHB” của các thế lực thù địch. Không để hình thành tổ chức chính trị đối lập dưới bất kỳ hình thức nào.
4. Đối tượng gây thảm họa thiên tai, môi trường có thể dẫn đến khủng hoảng kinh tế, chính trị - xã hội, tạo cơ hội để các đối tượng khác lợi dụng khoét sâu, thực hiện mục tiêu chiến lược của họ. Chúng có thể ở trong và ngoài nước thực hiện âm mưu hủy hoại nguồn nước, phá hoại môi trường, bất chấp lợi ích của quốc gia, dân tộc,... nhằm đạt được mục tiêu chính trị nhất định. Đây là loại đối tượng mới, cần đặc biệt quan tâm. Với đối tượng này, nếu thuộc nội bộ cần kiên trì “lấy giáo dục, thuyết phục là chính, đi đôi với giữ nghiêm kỷ luật, kỷ cương, xử lý nghiêm minh hành vi vi phạm pháp luật”. Nếu thuộc đối tượng bên ngoài, cần kiên trì đàm phán hòa bình, dựa vào luật pháp, công ước quốc tế, tranh thủ các tổ chức khu vực, tổ chức quốc tế, không để mâu thuẫn tăng cao đe dọa sự ổn định chính trị - xã hội của ta.
Bên cạnh đó, cần thống nhất nhận thức về sự chuyển hóa giữa đối tượng, đối tác là một vấn đề nhạy cảm, phức tạp. Trong lịch sử, một số chính trị gia đã sớm rút ra kết luận: “không có đồng minh vĩnh viễn và kẻ thù truyền kiếp, chỉ có lợi ích dân tộc là lâu dài”. Luận điểm này được các quốc gia ngày càng nhận thức rõ ràng hơn. Vì thế, đến nay các nước rất coi trọng mở rộng quan hệ đối tác ở các cấp độ khác nhau tùy theo lợi ích dân tộc. Đối với nước ta, quá trình hội nhập quốc tế, cần đa dạng hóa về nội dung, hình thức quan hệ, hợp tác, góp phần đưa quan hệ hợp tác với các nước đi vào chiều sâu, ổn định, vững chắc, nhất là với các nước láng giềng, các nước lớn, các nước ASEAN, các nước bạn bè truyền thống,... Trên cơ sở đó, không ngừng củng cố, tăng cường sự tin cậy về chính trị, đồng thời chủ động đấu tranh ngăn ngừa, không để các thế lực thù địch, lôi kéo chuyển hóa gây bất lợi cho ta.
Đại tá NGUYỄN ĐỒNG THỤY, Viện Chiến lược Quốc phòng
Học viện Quốc phòng quán triệt, vận dụng Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XIII) vào công tác huấn luyện - đào tạo, nghiên cứu khoa học 14/11/2024
Quân khu 4 lãnh đạo xây dựng khu vực phòng thủ theo Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XIII) 04/11/2024
Tư duy của Đảng về phát triển công nghiệp quốc phòng, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới (Tiếp theo và hết) 28/10/2024
Quân đoàn 3 trước yêu cầu xây dựng tinh, gọn, mạnh, tiến lên hiện đại 17/10/2024
Quân khu 3 nâng cao chất lượng công tác hậu cần theo Nghị quyết số 1658-NQ/QUTW 07/10/2024
Tư duy của Đảng về phát triển công nghiệp quốc phòng, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới 26/09/2024
Quân khu 5 xây dựng lực lượng vũ trang vững mạnh theo Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XIII) 12/09/2024
Bộ Tư lệnh Bảo vệ Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh quán triệt, thực hiện chuẩn mực đạo đức của cán bộ, đảng viên 05/09/2024
Tư duy của Đảng về phát triển công nghiệp quốc phòng, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới 26/08/2024
Vận dụng phương châm “dĩ bất biến, ứng vạn biến” trong sự nghiệp quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc* 22/08/2024
Tư duy của Đảng về phát triển công nghiệp quốc phòng, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới (Tiếp theo và hết)
Quân khu 4 lãnh đạo xây dựng khu vực phòng thủ theo Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XIII)
Học viện Quốc phòng quán triệt, vận dụng Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XIII) vào công tác huấn luyện - đào tạo, nghiên cứu khoa học