Thứ Bảy, 23/11/2024, 10:53 (GMT+7)
Đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống Quán triệt, thực hiện nghị quyết
Tuy nhiên, sự phát triển của Yên Bái chưa thật sự vững chắc và toàn diện; cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng CNH,HĐH còn chậm; năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của một số ngành còn thấp,... Để khắc phục những hạn chế, yếu kém trên, phấn đấu thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, Tỉnh ủy Yên Bái đã xác định rõ mục tiêu, nhiệm vụ phát triển KT-XH, QP-AN trong giai đoạn 2011 - 2015 là: Tiếp tục đổi mới toàn diện, mạnh mẽ, phát huy tiềm năng, thế mạnh, huy động và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực đầu tư phát triển kinh tế với tốc độ tăng trưởng cao và bền vững; văn hóa - xã hội phát triển, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với chăm lo nâng cao đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của nhân dân. Tăng cường tiềm lực QP-AN, giữ vững ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội.
Theo định hướng đó, Tỉnh ủy, UBND Tỉnh tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện đồng bộ các nhóm giải pháp chủ yếu sau:
Trên lĩnh vực nông nghiệp, Tỉnh tập trung lãnh đạo, chỉ đạo phát triển nền nông nghiệp toàn diện, hiệu quả, bền vững theo hướng sản xuất hàng hoá gắn với xây dựng nông thôn mới, nâng cao đời sống người dân nông thôn. Theo đó, các địa phương đẩy mạnh khuyến khích việc tập trung ruộng đất, khai thác tiềm năng đất nông nghiệp, áp dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật, công nghệ, chuyển đổi cơ cấu, liên kết “4 nhà”, phát triển các loại cây trồng, vật nuôi có năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế và sức cạnh tranh cao. Trên cơ sở đó, các địa phương đầu tư quy hoạch, xây dựng các vùng sản xuất chuyên canh: vùng sản xuất lúa, ngô hàng hóa; vùng sản xuất sắn cao sản, chè, quế, măng; vùng nguyên liệu giấy, gỗ gắn với xây dựng các nhà máy chế biến nông, lâm sản, thực phẩm; đồng thời, nghiên cứu đưa cây sâm Hàn Quốc, sâm Ngọc Linh vào trồng thử nghiệm ở vùng khí hậu phù hợp; đẩy mạnh phát triển chăn nuôi, thuỷ sản theo hướng công nghiệp, bán công nghiệp, trang trại, đưa tỷ trọng chăn nuôi, thuỷ sản chiếm 30% giá trị sản xuất nông nghiệp. Cùng với đó, Tỉnh chỉ đạo chặt chẽ công tác quy hoạch, quản lý đất nông nghiệp, giữ ổn định diện tích trồng lúa nước, nhằm bảo đảm nhu cầu thường xuyên và an ninh lương thực của Tỉnh. Là một tỉnh miền núi, Yên Bái coi trọng việc phát huy lợi thế đất đồi, rừng, đẩy mạnh trồng rừng, trồng cây cao su; thu hút, lồng ghép các nguồn lực đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng KT-XH nông thôn gắn với quy hoạch, xây dựng nông thôn mới; phấn đấu đến năm 2015: tỷ lệ che phủ của rừng đạt 63,5%; toàn Tỉnh có từ 15% đến 20% số xã đạt tiêu chí nông thôn mới; giữ vững ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội ở địa phương, cơ sở.
Phát huy tiềm năng, thế mạnh về tài nguyên, Yên Bái tập trung mọi nguồn lực đầu tư phát triển ngành công nghiệp theo hướng hiện đại, duy trì tốc độ tăng trưởng cao; lấy công nghiệp làm khâu đột phá trong phát triển KT-XH, phấn đấu đến năm 2015 tỷ trọng công nghiệp, xây dựng chiếm 41% trong GDP. Tỉnh tập trung phát triển các ngành, các sản phẩm mà Tỉnh có lợi thế cạnh tranh như: sản xuất xi măng, gang thép, vật liệu xây dựng,…; phát triển công nghiệp chế biến sâu gắn với các vùng nguyên liệu tập trung; huy động mọi nguồn lực đầu tư xây dựng hoàn chỉnh một bước cơ bản hạ tầng kỹ thuật, thu hút đầu tư; nâng cao hiệu quả hoạt động của các khu công nghiệp: Khu Công nghiệp phía Nam, Minh Quân, Âu Lâu, Bắc Văn Yên, Mông Sơn và các cụm công nghiệp: Yên Thế, Sơn Thịnh, Báo Đáp. Cùng với đó, Tỉnh chỉ đạo quyết liệt việc cải cách thủ tục hành chính, xây dựng cơ chế, chính sách thông thoáng, tạo hành lang pháp lý, điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp đầu tư vào Tỉnh; ưu tiên phát triển những ngành công nghiệp công nghệ cao, có quy mô lớn, tiết kiệm năng lượng, tài nguyên. Tỉnh khuyến khích thu hút đầu tư theo hướng liên kết rộng, hợp tác sâu với một số tập đoàn, tổng công ty lớn trong và ngoài nước có tiềm lực tài chính mạnh, đầu tư vào ngành công nghiệp chế biến khoáng sản (đá trắng, quặng sắt, gốm sứ, vật liệu xây dựng…), nông, lâm sản. Phấn đấu đến năm 2015, giá trị sản xuất công nghiệp đạt từ 7.400 tỷ đồng trở lên.
Trong phát triển du lịch và dịch vụ, Yên Bái coi trọng gắn với phát triển giao thông và liên kết khu vực; liên kết phát triển hệ thống nhà hàng, khách sạn, siêu thị với các đô thị trong và ngoài Tỉnh để kết nối các điểm du lịch; phát triển du lịch sinh thái gắn với liên kết tua, tuyến và hòa mạng du lịch của khu vực Tây Bắc với các vùng phát triển. Tỉnh xây dựng, ban hành chính sách, cơ chế linh hoạt để thu hút đầu tư phát triển du lịch, dịch vụ ở Đầm Hậu, Đầm Vân Hội, Hồ Thác Bà, Suối Giàng; đầu tư xây dựng hệ thống chợ xã, chợ trung tâm, chợ đầu mối;...
Cùng với đó, Yên Bái tập trung đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng KT-XH, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội và phục vụ tốt nhiệm vụ QP-AN, nhất là đầu tư cải tạo, nâng cấp hệ thống giao thông: các tuyến quốc lộ 70, 32C nối với đường cao tốc Nội Bài - Lào Cai, quốc lộ 37 qua thành phố Yên Bái, đường liên huyện, liên xã. Đồng thời, đầu tư nâng cấp, xây dựng mới các công trình dân sinh (điện, nước sạch, trường học, bệnh viện,…); tăng cường đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho người lao động, nhất là nông dân; thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội.
Quán triệt Nghị quyết Đại hội XI của Đảng về mục tiêu, nhiệm vụ QP-AN trong tình hình mới là: "Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; giữ vững chủ quyền biển đảo, biên giới, vùng trời; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN; giữ vững ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội; chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch..."2, Yên Bái đang triển khai cụ thể hóa phù hợp với thực tiễn của địa phương. Trong đó, Tỉnh tập trung lãnh đạo, chỉ đạo chăm lo xây dựng nền quốc phòng toàn dân (QPTD), thế trận QPTD gắn với thế trận an ninh nhân dân ngày càng vững chắc, giữ vững ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn, tạo điều kiện cho phát triển KT-XH. Hiện nay, trong thực hiện nhiệm vụ QP-AN, bên cạnh những thuận lợi cơ bản, Yên Bái cũng đang phải đối mặt với những khó khăn, thách thức: việc dạy nghề, giải quyết việc làm cho nông dân còn bất cập; di cư tự do, truyền đạo trái pháp luật, các loại tội phạm, tệ nạn xã hội còn phức tạp... Lợi dụng những khó khăn đó, các thế lực thù địch đang đẩy mạnh chiến lược “Diễn biến hoà bình”, chống phá trên tất cả các mặt. Vì vậy, cấp ủy, chính quyền các cấp phải tăng cường quán triệt sâu sắc chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước về nhiệm vụ QP-AN; nâng cao cảnh giác cách mạng, kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn phá hoại của các thế lực thù địch, bảo đảm đoàn kết nội bộ, giữ vững ổn định chính trị tại địa phương, cơ sở. Đồng thời, phải tích cực bồi dưỡng kiến thức QP-AN cho cán bộ, đảng viên; tăng cường tuyên truyền, giáo dục cho toàn dân, nhất là học sinh, sinh viên về nghĩa vụ, trách nhiệm và quyền lợi của mọi công dân đối với nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tiếp tục quán triệt và thực hiện nghiêm túc Nghị định số 119/2004/NĐ-CP của Chính phủ "Về công tác quốc phòng ở các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và các địa phương" và Chỉ thị số 36/2005/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ "Về tiếp tục chỉ đạo xây dựng cơ sở vững mạnh toàn diện để đáp ứng nhiệm vụ QP-AN trong tình hình mới", Yên Bái tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp uỷ, nâng cao trình độ, năng lực quản lý, điều hành của chính quyền các cấp đối với công tác QP-AN; kết hợp chặt chẽ phát triển KT-XH với tăng cường sức mạnh QP-AN; xây dựng thế trận QPTD gắn với xây dựng thế trận an ninh nhân dân; bảo đảm mỗi bước tăng trưởng, phát triển kinh tế của Tỉnh là một bước tăng cường tiềm lực vật chất - kỹ thuật cho khu vực phòng thủ (KVPT) và thế trận QPTD trên địa bàn. Theo đó, Tỉnh chỉ đạo tập trung tăng cường tiềm lực chính trị - tinh thần, tiềm lực kinh tế của KVPT; thường xuyên rà soát, điều chỉnh, bổ sung quyết tâm, phương án và các kế hoạch tác chiến, kế hoạch phòng chống bão lụt, cháy rừng, tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn. Tỉnh chú trọng xây dựng KVPT tỉnh, huyện về chiều sâu, ngày càng vững chắc; trong đó, từng bước triển khai xây dựng căn cứ chiến đấu, căn cứ hậu phương; tổ chức luyện tập, diễn tập các phương án theo kế hoạch; gắn việc thực hiện chính sách xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân với xây dựng cơ sở vững mạnh toàn diện, tăng cường xây dựng “thế trận lòng dân” ngày càng vững chắc.
Xây dựng LLVT địa phương vững mạnh toàn diện làm nòng cốt thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, quân sự địa phương là một nội dung được Tỉnh luôn coi trọng. Trước hết, Tỉnh tập trung củng cố, kiện toàn, nâng cao chất lượng tổng hợp, năng lực chuyên môn của cơ quan quân sự, công an các cấp đủ sức tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương và tổ chức thực hiện tốt nhiệm vụ QP-AN ở địa phương, cơ sở; chú trọng xây dựng LLVT nhân dân vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân, có sức mạnh tổng hợp, trình độ sẵn sàng chiến đấu (SSCĐ) cao, bảo đảm hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Đồng thời, thường xuyên duy trì và thực hiện nghiêm quy chế phối hợp giữa Quân đội với Công an theo Nghị định 77/2010/NĐ-CP của Chính phủ trong trao đổi thông tin, phối hợp đấu tranh ngăn ngừa mọi hoạt động phá hoại của các thế lực thù địch, các loại tội phạm, tệ nạn xã hội, giữ vững ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn. Lực lượng dân quân tự vệ được thực hiện đúng Luật Dân quân tự vệ, theo hướng "vững mạnh, rộng khắp", có số lượng, cơ cấu, thành phần hợp lý; chú trọng xây dựng về chất lượng, đặc biệt là chất lượng chính trị, trình độ SSCĐ. Hiện nay, lực lượng dân quân tự vệ của Tỉnh đạt tỷ lệ 1,88% so với số dân; trong đó, tỷ lệ đảng viên chiếm 20,6%. Lực lượng dự bị động viên được Tỉnh quan tâm chỉ đạo chặt chẽ từ khâu tạo nguồn, đăng ký, quản lý, huấn luyện, SSCĐ đến việc bảo đảm chế độ, chính sách; quản lý chặt chẽ phương tiện, vật tư, kỹ thuật của địa phương theo đúng quy định; bảo đảm xếp đủ biên chế, đúng chức danh và chất lượng chuyên nghiệp quân sự ngày càng cao, tỷ lệ đảng viên đạt 14,25%, đáp ứng yêu cầu SSCĐ và chiến đấu thắng lợi trong mọi tình huống.
Với những chủ trương, giải pháp tích cực đó, Đảng bộ, chính quyền, LLVT và nhân dân các dân tộc tỉnh Yên Bái đang nỗ lực phấn đấu hoàn thành tốt các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển KT-XH, QP-AN mà Nghị quyết Đại hội XVII của Đảng bộ Tỉnh xác định: xây dựng Yên Bái thành tỉnh phát triển khá vào năm 2015 và trở thành một trung tâm kinh tế của vùng Tây Bắc vào năm 2020, góp phần cùng cả nước thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XI của Đảng.
DƯƠNG VĂN THỐNG
Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy
1- ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 234.
2- ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 233.
Học viện Quốc phòng quán triệt, vận dụng Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XIII) vào công tác huấn luyện - đào tạo, nghiên cứu khoa học 14/11/2024
Quân khu 4 lãnh đạo xây dựng khu vực phòng thủ theo Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XIII) 04/11/2024
Tư duy của Đảng về phát triển công nghiệp quốc phòng, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới (Tiếp theo và hết) 28/10/2024
Quân đoàn 3 trước yêu cầu xây dựng tinh, gọn, mạnh, tiến lên hiện đại 17/10/2024
Quân khu 3 nâng cao chất lượng công tác hậu cần theo Nghị quyết số 1658-NQ/QUTW 07/10/2024
Tư duy của Đảng về phát triển công nghiệp quốc phòng, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới 26/09/2024
Quân khu 5 xây dựng lực lượng vũ trang vững mạnh theo Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XIII) 12/09/2024
Bộ Tư lệnh Bảo vệ Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh quán triệt, thực hiện chuẩn mực đạo đức của cán bộ, đảng viên 05/09/2024
Tư duy của Đảng về phát triển công nghiệp quốc phòng, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới 26/08/2024
Vận dụng phương châm “dĩ bất biến, ứng vạn biến” trong sự nghiệp quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc* 22/08/2024
Tư duy của Đảng về phát triển công nghiệp quốc phòng, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới (Tiếp theo và hết)
Quân khu 4 lãnh đạo xây dựng khu vực phòng thủ theo Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XIII)
Học viện Quốc phòng quán triệt, vận dụng Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XIII) vào công tác huấn luyện - đào tạo, nghiên cứu khoa học