Thứ Bảy, 23/11/2024, 01:22 (GMT+7)
Đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống Quán triệt, thực hiện nghị quyết
Xây dựng sức mạnh tổng hợp, bảo vệ vững chắc Tổ quốc là quan điểm nhất quán, cơ bản, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước ta, được thể hiện rõ trong Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Qua 10 năm thực hiện nội dung này của Nghị quyết, chúng ta cần đánh giá một cách toàn diện; trên cơ sở đó, đề ra những giải pháp thực hiện có hiệu quả trong thời gian tới.
Quán triệt sâu sắc các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, trọng tâm là Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, 10 năm qua, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã nỗ lực phấn đấu, thực hiện, tạo chuyển biến mạnh mẽ, tương đối toàn diện đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Trong đó, việc xây dựng, phát huy sức mạnh tổng hợp, bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là một nội dung trọng tâm, được các cấp, ngành, lực lượng, địa phương,... và cả hệ thống chính trị triển khai sâu rộng, với nhiều giải pháp đồng bộ, quyết liệt. Nhờ đó, chúng ta đã huy động được nguồn lực vật chất, tinh thần to lớn, giữ vững ổn định chính trị và môi trường hòa bình để xây dựng đất nước; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, lợi ích quốc gia - dân tộc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, được thể hiện ở những nét cơ bản sau:
Các cấp, ngành, địa phương đã tích cực thực hiện cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Công tác kiểm tra, giám sát được tăng cường, kỷ luật, kỷ cương trong Đảng được siết chặt, pháp luật Nhà nước được đề cao. Đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; phòng, chống tham nhũng, tiêu cực được đẩy mạnh; niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ được nâng lên. Công tác tư tưởng lý luận, báo chí không ngừng đổi mới, sáng tạo, góp phần củng cố sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, tạo sự đồng thuận cao trong toàn xã hội. Kinh tế tiếp tục phát triển và đạt được nhiều thành tựu quan trọng; sức cạnh tranh của nền kinh tế được cải thiện; tiềm lực của nền kinh tế cho quốc phòng, an ninh được tăng cường. Hiệu quả kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng, an ninh được nâng lên. Phát triển văn hóa, xã hội, con người có nhiều chuyển biến tích cực; dân chủ được phát huy, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân không ngừng được cải thiện. Khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố, tăng cường và phát huy trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.
Nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân thường xuyên được củng cố, tiềm lực quốc phòng, an ninh được tăng cường; tư duy về bảo vệ Tổ quốc có bước phát triển mới và ngày càng hoàn thiện. Thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân được kết hợp chặt chẽ trên phạm vi cả nước và từng địa phương. Quân đội nhân dân, Công an nhân dân được xây dựng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ từng bước hiện đại, một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại, hoàn thành tốt chức năng tham mưu cho Đảng, Nhà nước và là lực lượng nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc; tích cực tham gia xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở và các chương trình phát triển kinh tế - xã hội; là lực lượng nòng cốt, xung kích trong các nhiệm vụ cứu hộ, cứu nạn, khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh. Lực lượng dự bị động viên, dân quân tự vệ được xây dựng hùng hậu, vững mạnh, rộng khắp, góp phần giữ vững ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội ở cơ sở. Quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế tiếp tục được mở rộng, đi vào chiều sâu, thực chất; xử lý đúng đắn, hiệu quả quan hệ với tất cả các nước. Hội nhập và hợp tác quốc tế về quốc phòng, an ninh có bước phát triển tích cực; kiến tạo và tranh thủ các điều kiện quốc tế thuận lợi, các nguồn lực bên ngoài cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, nâng cao vị thế, uy tín nước ta trên trường quốc tế.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, nhận thức của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc còn đơn giản, chưa theo kịp sự phát triển của tình hình. Công tác nghiên cứu lý luận chậm được đổi mới; công tác tư tưởng có nơi, có lúc chưa thực sự được coi trọng; chưa có nhiều biện pháp hiệu quả ngăn chặn sự xâm lăng của văn hóa xấu độc, thực dụng, ảnh hưởng đến đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên, nhân dân. Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của một số tổ chức đảng còn thấp. Tham nhũng, lãng phí trên một số lĩnh vực, địa bàn vẫn còn nghiêm trọng. Kinh tế phát triển nhưng chưa thật bền vững; khả năng huy động cho quốc phòng, an ninh từ nền kinh tế còn hạn chế. Nhận thức về kết hợp giữa quốc phòng, an ninh với kinh tế, kinh tế với quốc phòng, an ninh có lúc, có nơi còn chưa đầy đủ, sâu sắc, có biểu hiện nặng về lợi ích kinh tế đơn thuần, xem nhẹ về quốc phòng, an ninh. Công tác văn hóa, sức mạnh đại đoàn kết dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa có lúc, có nơi chưa được phát huy đầy đủ; vẫn còn biểu hiện dân chủ hình thức, tách rời dân chủ với kỷ cương, pháp luật, v.v.
Những hạn chế, khuyết điểm nêu trên, cần được kiểm điểm nghiêm túc, tìm rõ nguyên nhân và có giải pháp khắc phục kịp thời, hiệu quả, nhằm không ngừng nâng cao sức mạnh tổng hợp của đất nước, dân tộc, bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong mọi tình huống. Hiện nay, trước tình hình và bối cảnh phức tạp mới của khu vực và quốc tế, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc có sự phát triển với những yêu cầu toàn diện, cao hơn, nặng nề hơn. Những vấn đề trước đây tưởng chừng đơn giản, dễ xử lý thì nay đã trở thành nguy cơ trực tiếp, nguy hiểm, đe dọa sự an nguy của quốc gia, dân tộc. Tình hình đó đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục quán triệt, thực hiện hiệu quả chủ trương, quan điểm của Đảng về xây dựng sức mạnh tổng hợp bảo vệ Tổ quốc, với nhiều giải pháp quyết liệt, đồng bộ, hiệu quả; trong đó, một số nội dung có tính chất gợi mở, đề xuất như sau:
Một là, thường xuyên chăm lo công tác xây dựng Đảng; nâng cao năng lực hoạch định đường lối đúng đắn, tạo hạt nhân quy tụ sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc để bảo vệ Tổ quốc. Trong đó, tập trung nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, góp phần xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị ở cơ sở trong sạch, vững mạnh. Các cấp ủy đảng phải luôn gần dân, chăm lo đến lợi ích của nhân dân, lắng nghe ý kiến chính đáng của nhân dân; quan tâm thể chế hóa và thực hiện có hiệu quả quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách về xây dựng sức mạnh tổng hợp bảo vệ Tổ quốc. Xây dựng bộ máy Nhà nước tinh, gọn, trong sạch, vì dân, không ngừng đổi mới, đáp ứng yêu cầu xây dựng đất nước và quản lý hiệu quả các lĩnh vực của đời sống xã hội trên cơ sở Hiến pháp và pháp luật.
Hai là, thường xuyên đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân; chăm lo xây dựng “thế trận lòng dân”, khơi dậy, quy tụ và phát huy chủ nghĩa yêu nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc; tăng cường, củng cố lòng tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa; giữ cho “trong ấm, ngoài êm”, tạo sự đồng thuận cao trong nhận thức và hành động của toàn dân đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Giải quyết hài hòa và quan tâm đến lợi ích chính đáng của nhân dân. Thực hiện tốt chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc, tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo, phát huy giá trị văn hóa, nguồn lực vật chất, tinh thần của các tôn giáo, góp phần xây dựng sức mạnh tổng hợp quốc gia.
Ba là, tập trung thực hiện hiệu quả Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030 và những năm tiếp theo, bảo đảm kinh tế phát triển nhanh, bền vững. Đổi mới mạnh mẽ và có hiệu quả mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đầy đủ, hiện đại, hội nhập. Phát triển đồng bộ và tạo sự liên kết chặt chẽ, hiệu quả giữa các khu vực, các vùng, các thành phần kinh tế, các loại hình sản xuất kinh doanh. Đẩy nhanh việc xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển quốc gia, các vùng, ngành, lĩnh vực, phù hợp với tiềm năng, lợi thế của từng địa phương. Thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả chủ trương phát triển kinh tế - xã hội kết hợp chặt chẽ với tăng cường quốc phòng, an ninh trong từng dự án, đề án, chương trình, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, nhất là các dự án đầu tư nước ngoài, các khu vực nhạy cảm về quốc phòng, an ninh. Xây dựng và phát triển công nghiệp quốc phòng tự lực, tự cường, lưỡng dụng, hiện đại, đủ năng lực nghiên cứu, thiết kế, chế tạo, sản xuất vũ khí, trang bị kỹ thuật để trang bị cho lực lượng vũ trang; đồng thời, có sự gắn kết chặt chẽ và trở thành mũi nhọn của công nghiệp quốc gia. Kết hợp phát triển kinh tế với thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội, chính sách dân tộc, tôn giáo, xóa đói giảm nghèo; chăm lo đời sống nhân dân; chủ động phát hiện, phòng ngừa, xử lý có hiệu quả các nhân tố bất ổn từ bên trong, bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong mọi tình huống.
Bốn là, xây dựng văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, sức mạnh nội sinh, động lực quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững của đất nước. Hướng trọng tâm vào xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện; xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, phù hợp bối cảnh phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Phát triển toàn diện, đồng bộ các lĩnh vực văn hóa, môi trường văn hóa, đời sống văn hóa phong phú, đa dạng, văn minh, lành mạnh; nêu cao những giá trị tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại đi cùng với bài trừ những yếu tố phản văn hóa, góp phần quan trọng vào xây dựng sức mạnh tổng hợp của đất nước. Phát huy vai trò của văn hóa trong việc quy tụ, huy động sức mạnh trong nước và quốc tế cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc thời kỳ mới.
Năm là, tiếp tục giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung thống nhất của Nhà nước đối với Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Tiếp tục bổ sung, hoàn thiện các quy định của pháp luật, bảo đảm đồng bộ, thống nhất, tạo hành lang pháp lý vững chắc cho các lực lượng trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Tập trung triển khai toàn diện, đồng bộ, thống nhất các chiến lược về bảo vệ Tổ quốc và cụ thể hóa nội dung nhiệm vụ, giải pháp có liên quan vào chương trình, quy hoạch, kế hoạch hằng năm của từng ban, bộ, ngành, địa phương để tổ chức thực hiện có hiệu quả. Đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật, tư duy lý luận về quân sự, quốc phòng, an ninh. Nghiên cứu, hoàn thiện và thực hiện tốt nguyên tắc, cơ chế lãnh đạo, chỉ huy, phối hợp hoạt động và huy động sử dụng lực lượng trong xử lý tình huống quốc phòng, an ninh. Kịp thời thể chế hóa sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Tiếp tục quán triệt, cụ thể hóa và thực hiện nghiêm túc, hiệu quả đường lối quốc phòng, quân sự của Đảng, nhất là vận dụng trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân; xây dựng các khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố, khu vực phòng thủ quân khu ngày càng vững chắc. Xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại; lực lượng dự bị động viên hùng hậu; dân quân tự vệ vững mạnh, rộng khắp, đủ sức răn đe từ thời bình và đánh thắng trong các tình huống chiến tranh, cũng như khả năng đấu tranh, xử lý hiệu quả các tình huống an ninh, giữ vững sự ổn định chính trị của đất nước.
Sáu là, triệt để tận dụng, khai thác thời cơ từ bên ngoài để xây dựng và phát triển đất nước. Trên cơ sở nhận thức, đánh giá đúng xu thế của thời đại và cục diện thế giới, khu vực, cần tiếp tục thực hiện nhất quán đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng; tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của các tổ chức quốc tế, các nước trong cộng đồng quốc tế, nhất là các nước láng giềng hữu nghị, bạn bè truyền thống, nước lớn. Vận dụng sáng tạo quan điểm của Đảng về xác định đối tượng, đối tác trong quan hệ đối ngoại, hợp tác quốc tế “thêm bạn, bớt thù”. Đẩy mạnh hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng; nâng tầm đối ngoại đa phương, phát huy vai trò, trách nhiệm trong các thể chế khu vực và toàn cầu, nhất là tham gia các vấn đề gắn với lợi ích an ninh và phát triển của đất nước, cũng như nỗ lực tham gia định hình khung khổ hoạt động trong các cơ chế, liên kết mới; chủ động có các sáng kiến phù hợp để nâng cao hình ảnh, vị thế của Việt Nam trong các vấn đề khu vực và toàn cầu. Tiếp tục mở rộng và nâng cao hợp tác về quốc phòng, an ninh, tích cực tham gia vào các hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc ở các mức độ khác nhau, góp phần ngăn chặn đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa .
Thiếu tướng, TS. NGUYỄN VĂN THÂN, Phó Viện trưởng Viện Chiến lược Quốc phòng
Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI),thành tựu,mấy đề xuất
Học viện Quốc phòng quán triệt, vận dụng Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XIII) vào công tác huấn luyện - đào tạo, nghiên cứu khoa học 14/11/2024
Quân khu 4 lãnh đạo xây dựng khu vực phòng thủ theo Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XIII) 04/11/2024
Tư duy của Đảng về phát triển công nghiệp quốc phòng, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới (Tiếp theo và hết) 28/10/2024
Quân đoàn 3 trước yêu cầu xây dựng tinh, gọn, mạnh, tiến lên hiện đại 17/10/2024
Quân khu 3 nâng cao chất lượng công tác hậu cần theo Nghị quyết số 1658-NQ/QUTW 07/10/2024
Tư duy của Đảng về phát triển công nghiệp quốc phòng, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới 26/09/2024
Quân khu 5 xây dựng lực lượng vũ trang vững mạnh theo Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XIII) 12/09/2024
Bộ Tư lệnh Bảo vệ Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh quán triệt, thực hiện chuẩn mực đạo đức của cán bộ, đảng viên 05/09/2024
Tư duy của Đảng về phát triển công nghiệp quốc phòng, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới 26/08/2024
Vận dụng phương châm “dĩ bất biến, ứng vạn biến” trong sự nghiệp quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc* 22/08/2024
Tư duy của Đảng về phát triển công nghiệp quốc phòng, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới (Tiếp theo và hết)
Quân khu 4 lãnh đạo xây dựng khu vực phòng thủ theo Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XIII)
Học viện Quốc phòng quán triệt, vận dụng Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XIII) vào công tác huấn luyện - đào tạo, nghiên cứu khoa học