Thứ Bảy, 23/11/2024, 11:39 (GMT+7)
Đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống Quán triệt, thực hiện nghị quyết
Từ nhận thức lý luận và hoạt động thực tiễn, Đảng ta xác định: trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phải đặc biệt chú trọng nắm vững và giải quyết tốt mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế. Quán triệt tinh thần đó, Đại hội XII của Đảng tiếp tục nhấn mạnh, cụ thể hóa, đề ra các nguyên tắc, phương châm để nhận thức đúng và xử lý tốt mối quan hệ này, nhằm bảo đảm lợi ích tối cao của đất nước.
1. Bản chất, nội hàm của mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế
Đây là mối quan hệ khách quan, nảy sinh và ngày càng sâu đậm trong quá trình đổi mới, phát triển đất nước và hội nhập với thế giới. Đó là mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại lẫn nhau. Bản chất và nội hàm của nó được thể hiện trên những điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, độc lập, tự chủ là cơ sở, điều kiện, tiền đề để chủ động, tích cực hội nhập quốc tế. Điều đó thể hiện: Một là, độc lập, tự chủ không phải là biệt lập với thế giới, đứng ngoài hội nhập quốc tế. Độc lập là quyền tự quyết của quốc gia, dân tộc. Tự chủ là năng lực thực hiện quyền tự quyết ấy trên thực tế. Độc lập, tự chủ được thể hiện trên tất cả các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, v.v. Đó là khát vọng của nhân dân ta, trải qua bao đấu tranh gian khổ mới giành được, để trở thành một dân tộc, một quốc gia có tên trên bản đồ thế giới. Song, trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay, thì hầu hết các quốc gia, dân tộc đều tích cực tham gia vào quá trình này, nhằm thu hút, tạo nguồn lực để xây dựng, phát triển đất nước. Đó là mặt tích cực của hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, tác động tiêu cực của nó là gia tăng sự phụ thuộc, thậm chí không giữ được độc lập, tự chủ, nhất là đối với các nước nhỏ, tiềm lực yếu so với các nước lớn. Do đó, giữ vững độc lập, tự chủ không chỉ bao gồm việc khắc phục sự lệ thuộc, chống sự áp đặt, chi phối, mà đòi hỏi phải nêu cao và chủ động trong hội nhập quốc tế. Hai là, độc lập, tự chủ là nhân tố đóng vai trò quyết định trong mối quan hệ với hội nhập quốc tế. Thực tiễn đổi mới cho thấy, nhờ giữ vững độc lập, tự chủ mà chúng ta đã tự quyết định được lộ trình, bước đi, cách thức, nội dung, biện pháp, đối tác, lĩnh vực phát triển; phát huy được những lợi thế, hạn chế những thách thức, tác động tiêu cực trong sự nghiệp đổi mới, hội nhập quốc tế. Từ hội nhập kinh tế, nước ta đã từng bước hội nhập toàn diện vào khu vực và quốc tế, quan hệ đối ngoại được mở rộng, ngày càng đi vào chiều sâu, hiệu quả, góp phần tạo ra thế và lực mới của đất nước. Ba là, có độc lập, tự chủ thì mới phân tích, xử lý thông tin một cách đúng đắn để có những giải pháp thiết thực, đồng bộ, hữu hiệu trước sự thay đổi mau lẹ của tình hình thế giới và khu vực, v.v. Từ những cơ sở đó, để tham gia hội nhập quốc tế, trước hết mỗi quốc gia, dân tộc phải là một “chủ thể” - đó chính là quyền độc lập, tự chủ của mình. Không có độc lập, tự chủ thì không thể nói tới hội nhập, chứ chưa nói tới chủ động, tích cực. Vì vậy, độc lập, tự chủ là cơ sở, điều kiện, tiền đề để chủ động, tích cực hội nhập quốc tế.
Thứ hai, đến lượt mình, hội nhập quốc tế góp phần tăng cường khả năng giữ vững độc lập, tự chủ của đất nước. Điều đó được thể hiện: Một là, thực tiễn cách mạng Việt Nam, nhất là trong hơn 30 năm đổi mới vừa qua cho thấy, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự điều hành, quản lý của Nhà nước, thông qua chủ động hội nhập quốc tế, mở rộng quan hệ đối ngoại, chúng ta đã phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, nâng cao vị thế Việt Nam, tạo được sự ủng hộ rộng rãi của cộng đồng quốc tế trong giải quyết các tranh chấp về lãnh thổ, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước. Do đó, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế vừa là một giải pháp quan trọng, vừa là một động lực để giữ vững độc lập, tự chủ. Hai là, hội nhập quốc tế sẽ tạo ra tiền đề cho phát triển kinh tế, xã hội – yếu tố có ý nghĩa quyết định đến sức mạnh tổng hợp của đất nước. Trước hết, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sẽ giúp chúng ta hội nhập đầy đủ, sâu, rộng hơn vào các thể chế kinh tế thế giới và khu vực, như: Tổ chức thương mại thế giới (WTO), Ngân hàng thế giới (WB), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng phát triển châu Á (ADB), v.v. Qua đó, tạo điều kiện thuận lợi cho huy động các nguồn lực bên ngoài, như: vốn, khoa học kỹ thuật, công nghệ, quản lý, v.v. Điều quan trọng nhất là, chúng ta có thể tận dụng cơ hội, đi trước, đón đầu, tiếp nhận và ứng dụng những thành tựu khoa học – công nghệ tiên tiến; đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, góp phần rút ngắn, thực hiện thành công quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, tận dụng cơ hội của quá trình toàn cầu hóa, chúng ta có thể mở rộng thị trường, với nhiều hình thức đầu tư, hợp tác sản xuất; phát huy mặt mạnh và lợi thế so sánh các sản phẩm trong nước; đẩy mạnh xuất khẩu lao động, tăng thu nhập cho người lao động, v.v. Đúng như cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã khẳng định trong bài phát biểu tại Diễn đàn kinh tế thế giới ở Đa-vốt, Thụy Sỹ (năm 1990): “... hội nhập và hợp tác kinh tế quốc tế như là một nhân tố quyết định cho việc đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế và công nghiệp hóa đất nước”1. Ba là, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sẽ tạo ra sự phối hợp chặt chẽ, xác định cơ chế thống nhất, hiệu quả, giúp chúng ta giải quyết những vấn đề lớn, mang tính toàn cầu, đã, đang đe dọa trực tiếp đến sự ổn định và phát triển của từng quốc gia, khu vực và cả thế giới, như: khủng bố, biến đổi khí hậu, thiên tai, v.v. Điều đó cho thấy, tất cả những thuận lợi này cũng như các nguồn lực từ bên ngoài chỉ có được thông qua hội nhập, hợp tác quốc tế, góp phần nâng cao tiềm lực của đất nước để giữ vững độc lập, tự chủ. Tuy nhiên, để đạt được điều đó, chúng ta phải nâng cao nội lực, có đủ khả năng tiếp nhận, biến cơ hội thành hiện thực; đồng thời, có chủ trương, giải pháp phù hợp để khắc phục những tác động tiêu cực của quá trình mở cửa, hội nhập, nhằm vừa giữ vững độc lập, tự chủ, vừa bảo đảm cho đất nước phát triển.
2. Xử lý mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế
Đại hội XII của Đảng đã chỉ rõ: “Triển khai mạnh mẽ định hướng chiến lược chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Bảo đảm hội nhập quốc tế là sự nghiệp của toàn dân và cả hệ thống chính trị, đẩy mạnh hội nhập trên cơ sở phát huy tối đa nội lực, gắn kết chặt chẽ và thúc đẩy quá trình nâng cao sức mạnh tổng hợp, năng lực cạnh tranh của đất nước; hội nhập kinh tế là trọng tâm, hội nhập trong các lĩnh vực khác phải tạo thuận lợi cho hội nhập kinh tế; hội nhập là quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh, chủ động dự báo, xử lý linh hoạt mọi tình huống, không để rơi vào thế bị động, đối đầu, bất lợi”2. Theo đó, trong quá trình thực hiện, chúng ta phải quán triệt sâu sắc, nắm vững đường lối đối ngoại của Đảng, tiến hành đồng bộ các chủ trương, giải pháp; song, trước hết cần tránh cực đoan trong cả nhận thức và hành động, như: quan điểm cho rằng độc lập, tự chủ là hằng số bất biến, có nội dung không thay đổi, không thể tương dung với hội nhập quốc tế, xem thế giới như một phức thể khó lường nên phải hết sức thận trọng trong quan hệ; trong thời đại của toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, không cần và không thể duy trì, củng cố độc lập dân tộc, tự chủ, chủ quyền quốc gia. Cùng với đó, phải có sự nghiên cứu thấu đáo và khoa học trên mấy phương diện sau:
Trên phương diện kinh tế, trước hết, muốn độc lập, tự chủ, quốc gia phải có thực lực, cụ thể là có một nền kinh tế độc lập, tự chủ. Đó là nền kinh tế có cơ cấu hợp lý, hiệu quả và đảm bảo độ an toàn cần thiết; phát triển bền vững và có năng lực cạnh tranh cao; cơ cấu xuất, nhập khẩu cân đối; cơ cấu mặt hàng đa dạng, phong phú với tỷ lệ các mặt hàng công nghệ và có giá trị gia tăng lớn chiếm ưu thế; cơ cấu thị trường quốc tế cũng đa dạng và tránh chỉ tập trung quá nhiều vào một vài mục tiêu. Đầu tư trực tiếp của nước ngoài, mặc dù là cần thiết và quan trọng nhưng không để chiếm lĩnh vai trò chi phối nền kinh tế quốc gia cũng như không thể được phép vào những ngành nhạy cảm có thể gây tổn hại đến an ninh, quốc phòng của đất nước. Một nền kinh tế độc lập, tự chủ trong bối cảnh toàn cầu hóa có thể được hiểu là nền kinh tế có khả năng thích ứng cao với những biến động của tình hình quốc tế và ít bị tổn thương trước những biến động đó. Trong bất cứ tình huống nào, nó cũng có thể cho phép duy trì được các hoạt động bình thường của xã hội và phục vụ đắc lực cho các mục tiêu an ninh, quốc phòng của đất nước.
Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, trước hết là độc lập, tự chủ về đường lối phát triển kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo tiềm lực kinh tế, khoa học và công nghệ, cơ sở vật chất - kỹ thuật đủ mạnh; có cơ cấu kinh tế hợp lý, có hiệu quả và sức cạnh tranh. Phát triển mạnh một số ngành, lĩnh vực và sản phẩm kinh tế chủ yếu có vai trò quan trọng hàng đầu, có hiệu quả, như: công nghệ thông tin, sinh học, vật liệu mới, luyện kim, hóa dầu, than, khoáng sản, cơ khí chế tạo, v.v. Hết sức chú trọng bảo đảm an ninh lương thực quốc gia, an toàn năng lượng, an toàn tài chính - tiền tệ, an toàn môi trường; bảo đảm cho đất nước phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững trong bất cứ tình huống nào, lúc thuận lợi cũng như lúc khó khăn.
Trên phương diện xã hội, yêu cầu của một quốc gia độc lập, tự chủ hàm chứa năng lực thực hành thuần thục hai cách thức quản trị xã hội: chính thức (tức là bằng pháp luật và các quy định thành văn) và phi chính thức (bằng con đường tuyên truyền, vận động, giáo dục), v.v.
Sự phát triển sâu rộng của quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay đang tạo ra hàng loạt không gian quyền lực chung, có tính toàn cầu, vượt ra ngoài tầm kiểm soát của chính phủ quốc gia. Để xử lý, vượt qua các thách thức, chính phủ nhiều nước trên thế giới đã chủ động cải cách. Tuy nội dung và mô hình cải cách có khác nhau, nhưng nổi lên 3 nét chung sau đây trong xu thế cải cách chính phủ hiện đại, mà chúng ta có thể tham khảo: Một là, phi tập trung hóa quyền lực nhà nước, mạnh dạn phân cấp, trao quyền cho các cơ cấu địa phương. Đây không phải là quá trình từ bỏ quyền lực trung ương, mà là biện pháp để củng cố bản thân quyền lực ấy một cách hợp lý, hiệu quả hơn. Trung ương không thay địa phương trong quản lý xã hội ở phạm vi cụ thể, mà phải giám sát việc quản lý do chính quyền địa phương tiến hành. Nhờ quá trình này, các quyết định trở nên sát hợp với thực tế hơn và động viên được đông hơn các tổ chức, cá nhân vào công việc quản lý xã hội. Hai là, phát huy đầy đủ vai trò của cơ chế thị trường trong phân bổ các nguồn lực phát triển xã hội; kết hợp tốt chức năng điều tiết của Chính phủ với thị trường và xã hội. Ba là, phát huy rộng rãi dân chủ trong toàn xã hội, không chỉ thể hiện sự phát triển của nền dân chủ chính trị, mà còn phải bảo đảm mọi quyền lực là của nhân dân, dân chủ được thực thi trong nhân dân nhằm giúp Chính phủ thực hiện sự quản lý hiện thực đối với các mặt của đời sống xã hội.
Trên phương diện chính trị, an ninh và đối ngoại, độc lập, tự chủ là yêu cầu có tính nguyên tắc trong quá trình hội nhập quốc tế của nước ta. Độc lập, tự chủ về chính trị có nghĩa là tự mình xác định mục tiêu, con đường phát triển đất nước; tự mình hoạch định đường lối, chủ trương, chiến lược phát triển; tự mình xác lập và duy trì thể chế chính trị, không chấp nhận bất cứ sự can thiệp nào từ bên ngoài. Độc lập, tự chủ về chính trị được thể hiện cả trong đối nội và đối ngoại, cả kinh tế, văn hóa, xã hội và quốc phòng, an ninh, v.v. Lô-gíc của tiến trình đổi mới là đổi mới kinh tế phải được đồng bộ, hài hòa với đổi mới chính trị, cải cách hành chính, mở rộng dân chủ, cải cách lập pháp, tư pháp. Yêu cầu đổi mới toàn diện như vậy đặt ra đòi hỏi ngày càng cấp thiết đối với năng lực quản trị của Nhà nước và năng lực cầm quyền của Đảng tại tất cả các cấp, các ngành, các địa phương. Đổi mới chính trị, đồng bộ với đổi mới kinh tế, tối ưu hóa hoạt động của hệ thống chính trị, phân bổ quyền lực chính trị hợp lý, kiểm soát quyền lực một cách hiệu quả là cách tốt nhất đáp ứng các yêu cầu và thách thức đặt ra.
Độc lập, tự chủ về đối ngoại là một vấn đề rất quan trọng, được thể hiện trước hết ở tư duy, nhận thức độc lập, sáng tạo, xuất phát từ lợi ích tối cao của đất nước - dân tộc, không giáo điều, rập khuôn, máy móc trong hoạch định và thực hiện đường lối, chính sách đối ngoại, trong xác định đối tác, đối tượng và tập hợp lực lượng quốc tế. Chủ quyền quốc gia trên lĩnh vực đối ngoại vận động theo tiến trình mở cửa, hội nhập quốc tế. Hệ thống các quan hệ đối ngoại rộng lớn hiện nay của Việt Nam là kết quả của một quá trình thực hiện các bước đột phá: từ phá thế bao vây, cấm vận, bình thường hóa quan hệ với các nước lớn, cải thiện quan hệ với các nước trong khu vực,... đến thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở, hợp tác bình đẳng cùng có lợi, là bạn với tất cả các nước, tích cực, chủ động hội nhập quốc tế. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Thực lực là cái chiêng mà ngoại giao là cái tiếng”. Điều kiện để bảo đảm độc lập, tự chủ về đối ngoại trong bối cảnh đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam là: chính trị, xã hội ổn định, kinh tế tăng trưởng nhanh, bền vững, quốc phòng vững mạnh, nguồn nhân lực đối ngoại trung thành và chuyên nghiệp, quan hệ cân bằng với các nước lớn.
Thống nhất cao về nhận thức và giải quyết hiệu quả trong thực tiễn quan hệ biện chứng giữa độc lập, tự chủ và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế là yêu cầu khách quan, bức thiết trong việc giữ vững môi trường hòa bình, ổn định kinh tế, chính trị, xã hội, phát triển đất nước, đóng góp tích cực vào việc giữ gìn hòa bình, ổn định, hữu nghị và hợp tác ở khu vực và trên thế giới. Chủ động nghiên cứu, dự báo chính xác mọi diễn biến của tình hình thế giới và trong nước, chuẩn bị các nguồn lực đủ mạnh, các đối sách, phương án hợp lý, nhất định chúng ta sẽ xử lý tốt mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế, góp phần đưa đất nước ta thực hiện thắng lợi mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
GS, TS. VŨ VĂN HIỀN, Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương
______________
1 - Võ Văn Kiệt - Đổi mới bản lĩnh và sáng tạo, Nxb QĐND, H.2006, tr. 82-83.
2 - ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, H. 2016, tr. 154-155.
Đại hội XII,mối quan hệ,hội nhập quốc tế,độc lập,tự chủ
Học viện Quốc phòng quán triệt, vận dụng Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XIII) vào công tác huấn luyện - đào tạo, nghiên cứu khoa học 14/11/2024
Quân khu 4 lãnh đạo xây dựng khu vực phòng thủ theo Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XIII) 04/11/2024
Tư duy của Đảng về phát triển công nghiệp quốc phòng, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới (Tiếp theo và hết) 28/10/2024
Quân đoàn 3 trước yêu cầu xây dựng tinh, gọn, mạnh, tiến lên hiện đại 17/10/2024
Quân khu 3 nâng cao chất lượng công tác hậu cần theo Nghị quyết số 1658-NQ/QUTW 07/10/2024
Tư duy của Đảng về phát triển công nghiệp quốc phòng, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới 26/09/2024
Quân khu 5 xây dựng lực lượng vũ trang vững mạnh theo Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XIII) 12/09/2024
Bộ Tư lệnh Bảo vệ Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh quán triệt, thực hiện chuẩn mực đạo đức của cán bộ, đảng viên 05/09/2024
Tư duy của Đảng về phát triển công nghiệp quốc phòng, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới 26/08/2024
Vận dụng phương châm “dĩ bất biến, ứng vạn biến” trong sự nghiệp quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc* 22/08/2024
Tư duy của Đảng về phát triển công nghiệp quốc phòng, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới (Tiếp theo và hết)
Quân khu 4 lãnh đạo xây dựng khu vực phòng thủ theo Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XIII)
Học viện Quốc phòng quán triệt, vận dụng Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XIII) vào công tác huấn luyện - đào tạo, nghiên cứu khoa học