Thứ Bảy, 23/11/2024, 08:56 (GMT+7)
Đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống Quán triệt, thực hiện nghị quyết
Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) đã tập trung thảo luận, cho ý kiến về một số nội dung cơ bản cần sửa đổi, bổ sung Hiến pháp 1992, trong đó yêu cầu: phải khẳng định và làm rõ hơn vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội.
Ngày 03-02-1930, Đảng Cộng sản (ĐCS) Việt Nam ra đời đã chấm dứt thời kỳ khủng hoảng về đường lối cứu nước của nhân dân ta trong hơn hai phần ba thế kỷ, kể từ khi nước ta bị thực dân Pháp xâm lược. Sự ra đời của Đảng là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lê-nin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước ở Việt Nam; đồng thời, cũng là thắng lợi đầu tiên của chủ nghĩa Mác - Lê-nin ở một nước nông nghiệp lạc hậu, thuộc địa nửa phong kiến, chưa qua giai đoạn phát triển TBCN. Giai cấp công nhân (GCCN) Việt Nam từ khi có Đảng, thông qua Đảng tiên phong của mình, kết hợp với lý luận khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, dưới sự giáo dục, rèn luyện của lãnh tụ Hồ Chí Minh, đã đứng lên gánh vác sứ mệnh lịch sử lãnh đạo sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng nhân dân khỏi mọi áp bức, bất công, mở ra thời kỳ phát triển mới cho dân tộc Việt Nam.
Trải qua 15 năm đấu tranh đầy gian khổ, hy sinh, những người cộng sản và những người yêu nước Việt Nam tự nguyện đi dưới ngọn cờ của Đảng, đã trực tiếp đương đầu với lưỡi lê, máy chém, nhà tù của đế quốc, xả thân cho sự nghiệp giải phóng toàn dân tộc. Năm 1945, cả dân tộc ta đã vùng dậy làm Cách mạng Tháng Tám, giành chính quyền. Đây là cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, xóa bỏ chính quyền của thực dân, phong kiến, lập nên Nhà nước dân chủ cộng hòa đầu tiên ở Đông Nam Á - Nhà nước độc lập, dân chủ, thật sự của dân, do dân, vì dân. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là thành công rực rỡ của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc vô cùng anh dũng suốt gần một trăm năm của nhân dân ta. Đó là thắng lợi của đường lối cách mạng dân tộc, dân chủ đúng đắn do Đảng ta vạch ra và lãnh đạo nhân dân cả nước thực hiện. Tiếp đó, thắng lợi của các cuộc kháng chiến chống xâm lược, làm nên chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954, đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước; thắng lợi của chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, làm tròn nghĩa vụ quốc tế đã càng minh chứng rõ vai trò lãnh đạo của Đảng ta.
Trong sự nghiệp đổi mới, ĐCS Việt Nam đã khẳng định bản lĩnh chính trị và năng lực lãnh đạo của mình, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, xây dựng nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”1, nên ngay sau khi giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, Đảng ta tiếp tục lãnh đạo công cuộc xây dựng và phát triển đất nước theo định hướng XHCN. Vào những thập niên cuối của thế kỷ XX, trước sự đổ vỡ của CNXH hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu, ĐCS Việt Nam vẫn kiên định con đường XHCN, tiếp tục lãnh đạo cách mạng Việt Nam đẩy mạnh công cuộc đổi mới, CNH,HĐH đất nước, tích cực và chủ động hội nhập quốc tế, giành được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử, đưa nước ta ra khỏi tình trạng nước kém phát triển.
Hiện nay, trước những biến động lớn của tình hình trong nước và quốc tế, việc xây dựng nền kinh tế thị trường (KTTT) định hướng XHCN càng đặt ra yêu cầu phải tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội2. Với tư duy đổi mới toàn diện đất nước, Đại hội VI của Đảng mở ra một bước ngoặt và sự khởi đầu quan trọng để phát triển nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta. Đến Đại hội IX của Đảng, khái niệm KTTT định hướng XHCN chính thức được thể hiện trong các văn kiện, đồng thời khẳng định phát triển KTTT định hướng XHCN là đường lối chiến lược nhất quán, mô hình tổng quát trong suốt thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam. Đại hội X của Đảng đã làm rõ thêm một bước nội dung cơ bản của việc tiếp tục hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN trên các phương diện: nắm vững định hướng XHCN trong nền KTTT ở nước ta; nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý của Nhà nước; phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành các loại thị trường cơ bản theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh; phát triển nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Trong lịch sử, sự phát triển của nền KTTT đã chứng tỏ sức sống tiềm tàng và những khả năng thích ứng với nhiều biến thể khác nhau; song, những rủi ro tiềm ẩn của KTTT là rất lớn, nguy cơ của khủng hoảng, suy thoái luôn bùng phát và mang tính dây chuyền cao, đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế. Ở nước ta, chủ trương phát triển nền KTTT định hướng XHCN của Đảng đã đưa đất nước ra khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển, mang lại lợi ích cho toàn xã hội. Tuy nhiên, Đại hội XI của Đảng cũng khẳng định: “Kinh tế phát triển chưa bền vững. Chất lượng tăng trưởng, năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế thấp, các cân đối kinh tế vĩ mô chưa vững chắc…”, “thể chế KTTT, chất lượng nguồn nhân lực, kết cấu hạ tầng vẫn là những điểm nghẽn cản trở sự phát triển”. Chính vì vậy, việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội càng được đặt ra cấp thiết hơn bao giờ hết.
Nhìn lại những chặng đường đầy gian khổ hy sinh đã qua và những thắng lợi vĩ đại đã giành được của dân tộc, mỗi người dân Việt Nam đều có quyền tự hào về vai trò lịch sử của ĐCS Việt Nam - người lãnh đạo và tổ chức mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Sức mạnh của Đảng chính là ở chỗ, Đảng ta tuyệt đối trung thành với lợi ích tối cao của nhân dân, đứng vững trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, phát huy được sức mạnh lòng yêu nước và khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Kết quả trên là những minh chứng cho sự lựa chọn của lịch sử khi công nhận ĐCS Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, là đội tiên phong của GCCN Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của GCCN, nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam. Trên thực tế, lịch sử có những bước phát triển quanh co, phức tạp; Đảng ta có lúc phạm phải sai lầm, nhưng đã nghiêm túc tự phê bình, sửa chữa khuyết điểm, tự đổi mới, chỉnh đốn để tiếp tục đưa sự nghiệp cách mạng tiến lên.
Vai trò lãnh đạo của ĐCS Việt Nam đã được khẳng định trong thực tiễn. Bởi vậy, việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp 1992 cần tiếp tục khẳng định và làm sâu sắc thêm vai trò lãnh đạo của ĐCS Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội. Có thể nói rằng, mục đích giành chính quyền của những người cộng sản, của ĐCS không phải là giành quyền thống trị cho riêng mình, mà để giải phóng toàn xã hội, đưa người lao động, đưa nhân dân lên địa vị làm chủ. Nhân dân làm chủ thông qua các hình thức dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện. Đảng lãnh đạo để dân làm chủ là mục tiêu tối cao, mục đích cuối cùng của Đảng. Điều 4 - Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 1992, được sửa đổi, bổ sung năm 2001 ghi rõ: “ĐCS Việt Nam, đội tiên phong của GCCN Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của GCCN, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”. Sự lãnh đạo của Đảng đối với xã hội được thể hiện rõ qua cơ chế vận hành của hệ thống chính trị Việt Nam: “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”. Đảng lãnh đạo Nhà nước nhưng không điều hành xã hội thay Nhà nước; Nhà nước quản lý xã hội nhưng không xa rời sự lãnh đạo của Đảng. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011 - gọi tắt là Cương lĩnh 2011) chỉ rõ phương thức lãnh đạo của Đảng: “Đảng lãnh đạo xã hội bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của đảng viên. Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo của hệ thống chính trị”3. Là một thành tố của hệ thống chính trị, ĐCS Việt Nam tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc chung, thống nhất, tạo sự phối hợp, vận hành đồng bộ của hệ thống chính trị. Tuy lãnh đạo xã hội chủ yếu thông qua Nhà nước, nhưng sự lãnh đạo của Đảng không quy tất cả vào việc lãnh đạo Nhà nước. Ngoài Nhà nước, trong hệ thống chính trị còn có Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân và nhân dân. Bằng đường lối, chủ trương, chính sách của mình, thông qua tuyên truyền, giáo dục, vận động, bằng công tác cán bộ, tổ chức đảng và đội ngũ đảng viên, bằng công tác kiểm tra, giám sát của mình, Đảng lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc, khối đại đoàn kết toàn dân, lãnh đạo nhân dân và toàn xã hội. Hiểu về bản chất sự lãnh đạo của Đảng như vậy, có thể khẳng định rằng: ĐCS Việt Nam lãnh đạo Nhà nước và xã hội (nói cách khác là Đảng cầm quyền), song Đảng vẫn là một bộ phận của hệ thống chính trị, không bao biện, làm thay chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan, tổ chức khác. Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng là bảo đảm cho hệ thống chính trị được vận hành tốt, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn phát triển đất nước.
Nhìn lại lịch sử ta thấy, trong bối cảnh đặc biệt4, bản Hiến pháp năm 1946 chưa thể hiện vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội. Đến Hiến pháp năm 1959, vai trò lãnh đạo của Đảng được thể hiện trong Lời nói đầu: “Từ năm 1930, dưới sự lãnh đạo của ĐCS Đông Dương, ngày nay là Đảng Lao động Việt Nam, cách mạng Việt Nam đã tiến lên một giai đoạn mới”. Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992, ngoài việc thể hiện vai trò lãnh đạo của Đảng trong Lời nói đầu, còn ghi rõ trong Điều 4 của hai bản Hiến pháp. Việc ghi nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội trong Hiến pháp là bắt nguồn từ sự tôn vinh của nhân dân, sự thừa nhận của thực tiễn lịch sử khách quan được thể hiện bằng luật cơ bản của quốc gia, khẳng định ĐCS Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, là Đảng cầm quyền duy nhất ở Việt Nam, phù hợp với thực tiễn đấu tranh giành độc lập, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta.
Xuất phát từ bối cảnh hiện tại và thực tiễn phát triển đất nước, Đại hội XI của Đảng đề ra nhiệm vụ “khẩn trương nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 (được sửa đổi, bổ sung năm 2001) cho phù hợp với yêu cầu tình hình mới”, thể chế hóa các quan điểm của Đảng được thể hiện trong Cương lĩnh 2011. Trên cơ sở Cương lĩnh 2011, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020, Báo cáo chính trị của Đại hội XI, việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp 1992 phải nhằm tiếp tục khẳng định và làm sâu sắc hơn vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội. Theo đó, cần tập trung vào một số vấn đề sau:
Thứ nhất, tiếp tục kế thừa về cơ bản quy định của Hiến pháp năm 1992 về vai trò lãnh đạo của ĐCS Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội, phù hợp với thực tiễn quá trình đấu tranh giành độc lập, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta. Đặc biệt, giữ nguyên quy định của Điều 4 - Hiến pháp 1992 về sự lãnh đạo của Đảng.
Thứ hai, về nội dung Điều 4, trên cơ sở kế thừa cơ bản quy định của Hiến pháp hiện hành, để thể chế hóa Cương lĩnh 2011, cần ghi nhận rõ, đầy đủ hơn bản chất, nền tảng tư tưởng của ĐCS Việt Nam: “ĐCS Việt Nam là đội tiên phong của GCCN, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của GCCN, nhân dân lao động và của dân tộc”5. Cần nghiên cứu bổ sung thêm nội dung: “Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”6. Bên cạnh đó, cần lưu ý rằng, luận điểm “ĐCS Việt Nam là Đảng cầm quyền” là điểm được nhấn mạnh, bổ sung trong nội dung về sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội mà Cương lĩnh 2011 đã xác định, cũng cần phải được thể hiện trong bản Hiến pháp sửa đổi. Tuy nhiên, việc thể chế hóa quan điểm trên trong Hiến pháp không nên cứng nhắc hoặc đơn thuần chỉ là sự “dịch chuyển” về thuật ngữ. Điều quan trọng là phải nghiên cứu để chuyển tải được một cách đầy đủ tinh thần của nội dung này vào trong các chương, điều cụ thể của bản Hiến pháp.
Thứ ba, sự lãnh đạo của Đảng và vai trò của Đảng cầm quyền không chỉ ghi nhận ở Lời nói đầu, ở Điều 4, mà trong nội dung các chương, điều khác của Hiến pháp cũng đều phải thể hiện được điều đó. Đây chính là sự thể hiện việc thể chế hóa đường lối, chủ trương, chính sách cơ bản của Đảng trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Theo tinh thần đó, việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp lần này cần quán triệt sâu sắc đường lối xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc của Đảng ta được nêu trong Cương lĩnh 2011 và các văn kiện khác của Đảng. Tuy nhiên, cần nhấn mạnh rằng, xuất phát từ đặc thù của Hiến pháp - với tư cách là đạo luật gốc của Nhà nước, cần quán triệt và thể chế hóa quan điểm của Đảng thành các quy phạm pháp lý ở tầm Hiến pháp cho phù hợp.
Hiến pháp là văn bản pháp lý quan trọng nhất thể hiện sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội. Theo đó, việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp 1992 phải nhằm tiếp tục khẳng định và bảo đảm vai trò cầm quyền, lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội. Đây là yêu cầu có tính khách quan, hoàn toàn phù hợp với thực tiễn đấu tranh giành độc lập, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ở nước ta; là nhân tố cơ bản, quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
TS. ĐINH XUÂN THẢO
Viện trưởng Viện Nghiên cứu lập pháp,
Ủy ban Thường vụ Quốc hội
1 - Hồ Chí Minh - Toàn tập, Tập 4, Nxb CTQG, H. 1995, tr. 152.
2 - Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011) đã nhấn mạnh mục tiêu: “Từ nay đến giữa thế kỷ XXI, toàn Ðảng, toàn dân ta phải ra sức phấn đấu xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng XHCN”. Một trong những phương hướng cơ bản để thực hiện mục tiêu đó là “phát triển nền KTTT định hướng XHCN”, đặc biệt chú trọng nắm vững và giải quyết các mối quan hệ lớn, trong đó có “mối quan hệ giữa KTTT và định hướng XHCN”.
3 - ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 88-89.
4 - Sau Cách mạng Tháng Tám, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa non trẻ phải đối đầu với nhiều khó khăn, thử thách, cả thù trong, giặc ngoài. Khi đó, Đảng Cộng sản Đông Dương tuyên bố tự giải tán, rút vào hoạt động bí mật với tên gọi “Hội tuyên truyền chủ nghĩa Mác”. Tất cả đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng đều được thực hiện thông qua sự điều hành, quản lý của Chính phủ, Mặt trận Việt Minh và sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
5, 6 - ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 88, 89.
Học viện Quốc phòng quán triệt, vận dụng Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XIII) vào công tác huấn luyện - đào tạo, nghiên cứu khoa học 14/11/2024
Quân khu 4 lãnh đạo xây dựng khu vực phòng thủ theo Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XIII) 04/11/2024
Tư duy của Đảng về phát triển công nghiệp quốc phòng, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới (Tiếp theo và hết) 28/10/2024
Quân đoàn 3 trước yêu cầu xây dựng tinh, gọn, mạnh, tiến lên hiện đại 17/10/2024
Quân khu 3 nâng cao chất lượng công tác hậu cần theo Nghị quyết số 1658-NQ/QUTW 07/10/2024
Tư duy của Đảng về phát triển công nghiệp quốc phòng, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới 26/09/2024
Quân khu 5 xây dựng lực lượng vũ trang vững mạnh theo Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XIII) 12/09/2024
Bộ Tư lệnh Bảo vệ Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh quán triệt, thực hiện chuẩn mực đạo đức của cán bộ, đảng viên 05/09/2024
Tư duy của Đảng về phát triển công nghiệp quốc phòng, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới 26/08/2024
Vận dụng phương châm “dĩ bất biến, ứng vạn biến” trong sự nghiệp quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc* 22/08/2024
Tư duy của Đảng về phát triển công nghiệp quốc phòng, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới (Tiếp theo và hết)
Quân khu 4 lãnh đạo xây dựng khu vực phòng thủ theo Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XIII)
Học viện Quốc phòng quán triệt, vận dụng Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XIII) vào công tác huấn luyện - đào tạo, nghiên cứu khoa học