Thứ Sáu, 22/11/2024, 05:01 (GMT+7)
Đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống Quán triệt, thực hiện nghị quyết
Tiếp tục quán triệt và giải quyết tốt các quan hệ lớn là vấn đề cấp thiết, quan trọng. Trong đó, “đổi mới mạnh mẽ, toàn diện và đồng bộ, có bước đi phù hợp trên các lĩnh vực, nhất là giữa kinh tế và chính trị” được Đại hội XII của Đảng nhấn mạnh trong mục tiêu, nhiệm vụ tổng quát phát triển đất nước 5 năm tới (2016 - 2020).
Công cuộc đổi mới ở nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng từ năm 1986 đến nay là quá trình đổi mới toàn diện, trong đó có kinh tế và chính trị. Thế nhưng, bên cạnh những thành tựu đạt được rất đáng mừng, cũng còn những hạn chế, bất cập; đặt biệt, “đổi mới chính trị chưa đồng bộ với đổi mới kinh tế; năng lực và hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị chưa ngang tầm nhiệm vụ”1. Vì thế, Đại hội XII của Đảng xác định: tiếp tục quán triệt và xử lý tốt các quan hệ lớn; trong đó có quan hệ “giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị”2. Điều này được thể hiện ở các nhiệm vụ: “Tiếp tục hoàn thiện thể chế, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”3, “Hoàn thiện, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân; không ngừng củng cố, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc”4, “Tiếp tục hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”5, “Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh,…”6. Đó chính là tiếp tục đổi mới đồng bộ thể chế chính trị và thể chế kinh tế.
Thể chế chính trị là hình thức triển khai hoạt động của một chế độ chính trị và phụ thuộc vào tính chất, nội dung, mục đích của chế độ chính trị. Thể chế kinh tế là hình thức cụ thể của quan hệ sản xuất hay chế độ quản lý và hình thức quản lý nền kinh tế quốc dân dựa trên quan hệ sản xuất. Mối quan hệ giữa thể chế chính trị và thể chế kinh tế, suy cho cùng là thể hiện mối quan hệ giữa chính trị và kinh tế, giữa kiến trúc thượng tầng và cơ sở kinh tế. Xây dựng các thể chế phù hợp, đồng bộ, có chất lượng là tiền đề, điều kiện cho sự phát triển của đất nước. Chất lượng của thể chế được đánh giá bằng hiệu quả hoạt động của chính quyền các cấp, chất lượng của chính sách, pháp luật và thực thi trong đời sống xã hội, bảo đảm quyền tham gia trực tiếp và thực chất của người dân vào quản trị sự phát triển kinh tế - xã hội và khả năng kiểm soát tham nhũng. Các nhà nghiên cứu khẳng định: “Không phải lý do từ văn hóa, thời tiết hay yếu tố địa lý, cũng không phải do thiếu hiểu biết về những chính sách đúng đắn, mà chính là thể chế kinh tế và thể chế chính trị do con người tạo ra là nguyên nhân căn bản cho sự thành công (hay không thành công) về kinh tế và xã hội”7.
Một nền kinh tế muốn phát triển nhanh và bền vững phải có một hệ thống chính trị phù hợp với hệ thống kinh tế. Sự phù hợp giữa hệ thống chính trị với hệ thống kinh tế sẽ tạo ra động lực to lớn thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển nhanh và bền vững.
Nhìn lại 30 năm qua, những điều chỉnh, đổi mới thể chế kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội,… đặc biệt là thể chế kinh tế ở Việt Nam, đã có những bước tiến đáng kể và có những tác động quyết định đến thành công của công cuộc đổi mới đất nước. Dân chủ xã hội chủ nghĩa và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc tiếp tục được phát huy; công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị được chú trọng và đạt một số kết quả quan trọng. Quan điểm và thể chế về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện; hiệu lực, hiệu quả được nâng cao, v.v. Tuy nhiên, những hạn chế, bất cập của thể chế kinh tế và thể chế chính trị, sự “lệch nhịp” giữa đổi mới hai thể chế này đang trở thành rào cản đối với sự phát triển toàn diện kinh tế - xã hội của đất nước.
Trên thực tế, đổi mới thể chế chính trị đang còn chậm so với đổi mới thể chế kinh tế. Vì thế, hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị bộc lộ rõ những bất cập. Đó là, “Tổ chức bộ máy của Đảng và toàn hệ thống chính trị còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc; chức năng, nhiệm vụ ở một số tổ chức còn chồng chéo; hiệu lực, hiệu quả hoạt động của nhiều tổ chức trong hệ thống chính trị chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ, v.v. Việc kiện toàn tổ chức, bộ máy các cơ quan, tổ chức nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội gắn với tinh giản biên chế, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức kết quả còn thấp. Số lượng công chức không những không giảm mà lại tăng…”8. Điều đó không chỉ ảnh hưởng đến phát triển kinh tế - xã hội, mà còn là nguyên nhân dẫn đến tiền lương thấp, khu vực công thiếu tính cạnh tranh so với khu vực tư về thu nhập, phát sinh những tiêu cực trong bộ máy công quyền. Vì thế, Đại hội XII của Đảng nhấn mạnh: “Đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới”9; trong đó, có đổi mới thể chế chính trị và thể chế kinh tế.
Đổi mới thể chế chính trị đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới với những nội dung cụ thể:
Thứ nhất, tăng cường vai trò lãnh đạo và đổi mới phương thức lãnh đạo kinh tế của Đảng. Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với đất nước đã được hiến định tại Điều 4, Hiến pháp năm 2013. Để sự lãnh đạo của Đảng đáp ứng yêu cầu của sự phát triển, đồng thời khắc phục kịp thời những hạn chế, bất cập, điều quan trọng là Đảng phải không ngừng đổi mới, hoàn thiện. Trong đó, cần đổi mới phương thức lãnh đạo kinh tế của Đảng, theo hướng: (1) Nâng cao chất lượng đường lối, chủ trương, chính sách kinh tế,… của Đảng, khắc phục sự áp đặt chủ quan, duy ý chí và giáo điều, tổ chức một cách nghiêm túc công tác nghiên cứu khoa học, tổng kết thực tiễn, khuyến khích phản biện xã hội trên tinh thần xây dựng, v.v. Theo đó, đảm bảo quan điểm, chủ trương của Đảng về phát triển kinh tế - xã hội thực sự kết tinh được trí tuệ của toàn Đảng và toàn dân; (2) Đảm bảo sự thống nhất biện chứng giữa chính trị và kinh tế phải mang tính nguyên tắc và trở thành thước đo chủ yếu đối với công tác lãnh đạo kinh tế. Để quán triệt nguyên tắc này, cần chú ý các khía cạnh: a) Chính sách, chủ trương, đường lối kinh tế phải được luận chứng về kinh tế và chính trị trong sự thống nhất biện chứng, khắc phục sai lầm tách rời kinh tế với chính trị. b) Giải quyết đúng đắn lợi ích trước mắt với lâu dài, lợi ích bộ phận với toàn bộ, lợi ích toàn xã hội với lợi ích giai cấp, mỗi tầng lớp và mỗi cá nhân. Đặt lợi ích quốc gia, dân tộc là mục tiêu tối hậu và mở rộng công khai, dân chủ trong xã hội, chống “lợi ích nhóm tiêu cực”. c) Chính sách kinh tế luôn đi liền với chính sách xã hội, tạo động lực vật chất và tinh thần. d) Đánh giá thành công hay thất bại, sai lầm trong công tác kinh tế cần phân tích cả nguyên nhân về chính trị, đồng thời rút ra bài học về mối quan hệ giữa chính trị và kinh tế. (3) Xác định rõ ràng vai trò lãnh đạo của Đảng và chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước, nhằm khắc phục những sai lầm thường xảy ra trong quản lý kinh tế ở nước ta là cơ quan đảng làm thay chức năng quản lý nhà nước, còn cơ quan nhà nước lại lấn át quyền quản lý của doanh nghiệp.
Thứ hai, tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. “Xây dựng Nhà nước pháp quyền phải tiến hành đồng bộ cả lập pháp, hành pháp, tư pháp và được tiến hành đồng bộ với đổi mới hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; gắn với đổi mới kinh tế, văn hóa, xã hội. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp và pháp luật”10 như Đại hội XII của Đảng nhấn mạnh.
Thứ ba, tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. Đa dạng hóa về hình thức, chức năng, nhiệm vụ, nâng cao tính thiết thực và hiệu quả, làm tốt chức năng phản biện, giám sát xã hội. Về phương thức hoạt động của các tổ chức chính trị, đoàn thể xã hội, hội nghề nghiệp cần mạnh dạn sang hoạt động tự chủ. Điều này có nghĩa là kinh phí trang trải cho hoạt động của các tổ chức này chủ yếu lấy từ nguồn đóng góp của các thành viên tham gia tổ chức đó. Ngân sách nhà nước chỉ hỗ trợ cho các tổ chức này khi họ thực hiện công việc do Nhà nước yêu cầu. Đồng thời, cần nghiên cứu việc xác định cán bộ của các tổ chức này là công chức Nhà nước như hiện nay liệu có phù hợp không.
Tiếp tục đổi mới hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, với nội dung lớn: 1- Nhận thức và thể chế hóa các hình thức sở hữu, thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; thể chế hóa vai trò “chủ đạo” của kinh tế nhà nước; về vị trí, vai trò, biện pháp phát triển kinh tế tư nhân và phát huy vai trò động lực của khu vực kinh tế này. 2- Hoàn thiện thể chế phát triển các loại thị trường trong điều kiện hội nhập quốc tế đầy đủ, sâu rộng, đặc biệt là thị trường lao động, tài chính, bất động sản và khoa học - công nghệ. 3- Hoàn thiện thể chế phân phối thu nhập quốc dân, giải quyết hài hòa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và thể chế quản lý các lĩnh vực văn hóa, xã hội và môi trường, đảm bảo sự phát triển bền vững. 4. Đổi mới quản lý nhà nước về kinh tế - xã hội là một trong những vấn đề trọng yếu của hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường được xác định như là “bà đỡ” cho sự phát triển kinh tế, “người nhạc trưởng” trong quản lý, điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Vai trò của Nhà nước thể hiện trong việc “tạo lập sân chơi rõ ràng, minh bạch, công bằng và điều khiển cuộc chơi công tâm”. Tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng và cải cách nền hành chính quốc gia, thể chế hành chính công, thể chế quản lý kinh tế ở cả khu vực công và khu vực tư, với mục tiêu cốt lõi là nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy, tinh gọn, nâng cao năng lực chuyên môn và đạo đức công vụ của công chức trong bộ máy. Việc phát huy vai trò đó phụ thuộc vào nhiều điều kiện, quan trọng hàng đầu là chất lượng hệ thống pháp luật, hoạt động của bộ máy nhà nước và năng lực, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công chức Nhà nước.
GS, TS. CHU VĂN CẤP, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
_______________
1 - ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, H. 2016, tr. 68.
2, 3, 4, 5, 6 - Sđd, tr. 80, 77, 79, 79, 80.
7 - Daron Acemoglu và Ja A. Robinson - Tại sao các quốc gia thất bại, nguồn gốc của quyền lực, thịnh vượng và nghèo đói, Nxb Trẻ, H. 2013.
8 - ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, H. 2016, tr. 193 - 194.
9 - Sđd, tr. 76
10 - ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, H. 2016, tr. 175.
Đổi mới chính trị,kinh tế
Học viện Quốc phòng quán triệt, vận dụng Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XIII) vào công tác huấn luyện - đào tạo, nghiên cứu khoa học 14/11/2024
Quân khu 4 lãnh đạo xây dựng khu vực phòng thủ theo Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XIII) 04/11/2024
Tư duy của Đảng về phát triển công nghiệp quốc phòng, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới (Tiếp theo và hết) 28/10/2024
Quân đoàn 3 trước yêu cầu xây dựng tinh, gọn, mạnh, tiến lên hiện đại 17/10/2024
Quân khu 3 nâng cao chất lượng công tác hậu cần theo Nghị quyết số 1658-NQ/QUTW 07/10/2024
Tư duy của Đảng về phát triển công nghiệp quốc phòng, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới 26/09/2024
Quân khu 5 xây dựng lực lượng vũ trang vững mạnh theo Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XIII) 12/09/2024
Bộ Tư lệnh Bảo vệ Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh quán triệt, thực hiện chuẩn mực đạo đức của cán bộ, đảng viên 05/09/2024
Tư duy của Đảng về phát triển công nghiệp quốc phòng, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới 26/08/2024
Vận dụng phương châm “dĩ bất biến, ứng vạn biến” trong sự nghiệp quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc* 22/08/2024
Tư duy của Đảng về phát triển công nghiệp quốc phòng, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới (Tiếp theo và hết)
Quân khu 4 lãnh đạo xây dựng khu vực phòng thủ theo Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XIII)
Học viện Quốc phòng quán triệt, vận dụng Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XIII) vào công tác huấn luyện - đào tạo, nghiên cứu khoa học