Thứ Sáu, 22/11/2024, 04:23 (GMT+7)
Đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống Quán triệt, thực hiện nghị quyết
Tham nhũng “vặt” là vấn nạn của đất nước, đã và đang “gặm nhấm”, làm suy đồi đạo đức xã hội, mục ruỗng thể chế chính trị. Nhận diện, chỉ rõ thực trạng, hệ lụy, nguyên nhân và đề ra giải pháp để từng bước triệt tiêu vấn nạn này là yêu cầu cấp thiết của Đảng, Nhà nước, cả hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân, trước hết là của cấp ủy, người đứng đầu chính quyền các cấp.
I - Thực trạng, hệ lụy và nguyên nhân tham nhũng “vặt” ở nước ta
Hiện nay, tham nhũng đã trở thành nguy cơ hiện hữu dẫn đến sự suy đồi văn hóa, đạo đức của con người, xã hội; lực cản không nhỏ đối với sự phát triển của đất nước. Tham nhũng thường có hai loại: tham nhũng “lớn” và tham nhũng “vặt”. Tuy nhiên, ranh giới giữa tham nhũng “lớn” và tham nhũng “vặt” rất mỏng manh, chia ra như vậy là để phân biệt một cách tương đối nhằm tìm ra phương thuốc đặc trị từng loại. Tham nhũng “vặt” là hành vi của những người: “a. Cán bộ công chức, viên chức; b. Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn - kỹ thuật trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân; c. Cán bộ lãnh đạo, quản lý trong doanh nghiệp của Nhà nước; cán bộ lãnh đạo, quản lý là người đại diện phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp; d. Người được giao nhiệm vụ, công vụ có quyền hạn trong khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ đó”1 lợi dụng chức trách, quyền hạn, nhiệm vụ để nhũng nhiễu, gây khó khăn nhằm vụ lợi từ tổ chức, doanh nghiệp và người dân, với giá trị vật chất không lớn, chưa đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự. Hành vi này diễn ra từ lâu, hằng ngày, ở nhiều nơi, nhiều cơ quan, tổ chức và các vị trí khác nhau ở cấp cơ sở2, thậm chí gần như đã trở thành “thông lệ”, “thói quen”, hình thức “bôi trơn”, “văn hóa” của không ít cán bộ, công chức, viên chức. Nó được ví như “bệnh ghẻ ruồi”, cứ dấm dứt, dai dẳng, dễ lây lan, làm cho từng cá nhân, cả xã hội bức xúc, bất an và “tình trạng tham nhũng “vặt” vẫn chưa được ngăn chặn, kiềm chế”3.
Những hành vi tham nhũng “vặt” diễn ra trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội, từ sản xuất, kinh doanh, liên doanh, liên kết, đầu tư xây dựng cơ bản, quản lý và sử dụng đất đai, ngân sách, thuế, ngân hàng, hải quan, xuất nhập khẩu, tư pháp, giáo dục, y tế, chính sách xã hội, quản lý hành chính, v.v. Tham nhũng “vặt” cứ như “nấm mốc mọc sau mưa”. Thật khó chịu! Và đặc biệt nguy hại là nó đã xuất hiện trong công tác trọng yếu của Đảng, Nhà nước và nhân dân, như: công tác cán bộ; công tác chính sách; công tác an sinh xã hội, v.v. Nó không chỉ xuất hiện ở cá nhân, mà còn mang tính đồng lõa của số đông, thậm chí có tổ chức. Thói tham nhũng “vặt” diễn ra có cả kín đáo và công khai, gây khó khăn cho người dân, tổ chức, doanh nghiệp bất cứ việc gì, ở lĩnh vực nào, hình thành nên cái cơ chế kỳ quặc “xin - cho”. Không khó để tìm ra những minh chứng về nó. Người dân thì phải đi “xin”, còn “công bộc” thì giữ quyền “cho”. Người dân, doanh nghiệp phải thường xuyên sấp ngửa đến các cơ quan công quyền để “xin” đủ thứ, từ xin cho con đi học, chuyển lớp, chuyển trường; xin cấp giấy chứng tử; xin cấp giấy phép kinh doanh; xin giấy khám sức khỏe để vào làm việc của các cơ quan nhà nước. Thậm chí đến những cán bộ, công chức, viên chức bình thường, hoặc cấp thấp cũng phải “chạy”, phải “xin” vào biên chế, xin đi học, xin thi tuyển nâng lương; xin chuyển địa bàn, đơn vị công tác, v.v. Ngay đến người có công với đất nước, vào sống ra chết với sự nghiệp cách mạng,… cũng phải đi xin chế độ của mình mà lẽ ra đương nhiên được hưởng theo chính sách của Nhà nước; hay các doanh nghiệp, nhà hảo tâm,… muốn được ủng hộ, chăm lo cho nhân dân khi gặp thiên tai, hỏa hoạn,… cũng phải xin. Việc gì cũng phải “xin”, trở thành một cái “lệ”, tệ nạn nguy hiểm trong xã hội! Người dân, doanh nghiệp nào muốn được “cho”, nhất thiết phải tìm mọi cách để lót tay cho những “công bộc”. Hình thức lót tay diễn ra muôn hình, vạn trạng, khi thì núp bóng việc gặp gỡ, giao lưu, thăm hỏi, khi thì lợi dụng tổ chức sinh nhật, việc hiếu, việc hỉ,… với những món quà “quê”, hay phong bao đủ loại “xanh, đỏ”, v.v. Và như thế cái “văn hóa phong bì” rất tệ hại ra đời.
Tham nhũng “vặt” nhưng hậu quả thì không hề “vặt” và rất khó lường. Đó là những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; làm xói mòn giá trị đạo đức nghề nghiệp, đạo đức công vụ; làm hư hỏng cán bộ, gây phiền toái cho nhân dân và những công chức, viên chức chân chính của nhà nước. Tuy giá trị vật chất không lớn, nhưng nó đã góp phần vào làm thất thoát tài sản, công sức của Nhà nước, quyền lợi, vật chất của nhân dân, từng bước “gặm nhấm” làm rối loạn các giá trị chuẩn mực xã hội, làm suy yếu cơ quan công quyền; đồng thời, là cơ sở để cho tham nhũng “lớn” phát triển, làm lũng loạn xã hội. Tham nhũng “vặt” làm mất niềm tin của các nhà đầu tư, làm vẩn đục môi trường kinh doanh, gây nên tiền lệ “xin – cho”, “lót tay” trong đấu thầu kinh doanh, v.v. Đặc biệt, nó là căn nguyên dẫn đến sự giảm sút lòng tin của con người với con người trong xã hội, của các thành viên trong tổ chức; là cái cớ để các thế lực thù địch lợi dụng công kích, chống phá Đảng, chế độ và sâu xa hơn là làm xói mòn lòng tin của nhân dân với thể chế chính trị, làm giảm uy tín của Đảng, Nhà nước trong lòng nhân dân và trên trường quốc tế.
Sở dĩ có hiện tượng đó, là do xuất phát từ cả nguyên nhân khách quan và chủ quan, cùng nhau tác động, thúc đẩy làm cho tham nhũng “vặt” ra đời, phát triển. Về nguyên nhân khách quan, tham nhũng dù “lớn”, hay “vặt” cũng đều là hiện tượng xã hội, là biểu hiện của sự tha hóa quyền lực, đạo đức công vụ. Nó tồn tại ở mọi chế độ xã hội có giai cấp, ở mọi hình thức nhà nước, với mức độ khác nhau. Điển hình là, khi trình độ quản lý nhà nước lạc hậu; mức sống của cán bộ, công chức, viên chức, nhất là ở cơ sở còn thấp; những giá trị chuẩn mực đạo đức xã hội bị xáo trộn; người dân, doanh nghiệp có xu hướng tìm mọi cách để thực hiện bằng được mục đích trong cuộc sống và tối ưu hóa lợi nhuận trong kinh doanh. Bên cạnh đó, hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách vận hành, quản lý xã hội, quản lý sản xuất, kinh doanh còn chưa đầy đủ, thiếu đồng bộ, thiếu nhất quán; việc phân cấp quản lý giữa Trung ương và địa phương còn bất cập; việc quản lý tài sản, vốn của nhà nước còn lỏng lẻo; dư luận xã hội còn thờ ơ, hoặc phản ứng chưa đủ mạnh, thậm chí có lúc “đồng lõa”,… cũng tạo mảnh đất màu mỡ cho tham nhũng, tham nhũng “vặt” tồn tại, phát triển.
Về nguyên nhân chủ quan, là do: “Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí chưa bị đẩy lùi. Một số mặt công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị chậm chuyển biến”4. Cùng với đó, công tác cải cách hành chính còn chậm và lúng túng; nạn giấy tờ, thủ tục hành chính còn rất phiền hà, bất hợp lý. Các chế độ kiểm tra, giám sát việc thực thi công vụ và trách nhiệm của cán bộ, công chức, viên chức chưa rõ ràng, thiếu hiệu quả. Chế độ tiền lương đối với đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức còn bất hợp lý, chậm được cải cách. Sự lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện công tác phòng ngừa và đấu tranh chống tham nhũng, tham nhũng “vặt” chưa toàn diện, đồng bộ, thiếu những nội dụng đột phá, thậm chí còn bị coi nhẹ ở một số cơ quan, đơn vị. Việc phát hiện cán bộ, công chức, viên chức vi phạm chưa kịp thời và khi xử lý thì còn nương nhẹ, nể nang, thiếu cương quyết; chưa có cơ chế khen thưởng những tập thể, cá nhân kiên quyết đấu tranh chống hiện tượng tham nhũng “vặt” và có nhiều thành tích trong loại bỏ tệ nạn xã hội này. Nhiệm vụ của cơ quan chức năng trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng chưa rõ ràng, còn chồng chéo, cơ chế phối hợp chưa cụ thể, nhất là chưa có những công cụ phát hiện, xử lý tham nhũng, tham nhũng “vặt” thật sự hữu hiệu. Việc huy động, phát huy vai trò của nhân dân, Mặt trận Tổ quốc, báo chí trong đấu tranh chống tham nhũng, tham nhũng “vặt” chưa được quan tâm đúng mức, còn hình thức, thiếu hiệu quả. Công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức của toàn xã hội về tham nhũng và đấu tranh chống tham nhũng chưa tạo được sự chuyển biến tích cực, v.v.
Vì thế, nhìn thẳng vào sự thật, nhận diện đúng thực trạng, hệ lụy và nguyên nhân của tham nhũng “vặt”, đề ra những nội dung, giải pháp đủ mạnh để đấu tranh, phòng, chống tham nhũng “vặt” hiệu quả là trách nhiệm chính trị, nhiệm vụ cấp thiết của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, trước hết là của cấp ủy, người đứng đầu các ngành, các cấp trong hệ thống chính trị.
XUÂN TUẤN
____________
1 - Khoản 2, Điều 1, Luật Phòng, chống tham nhũng, năm 2006.
2 - Đơn vị hành chính cấp xã và cơ quan, ban, ngành cấp huyện.
3 - Nguyễn Phú Trọng - Quyết tâm ngăn chặn và đẩy lùi tham nhũng, Nxb CTQG, H. 2019, tr. 347.
4 - ĐCSVN- Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, H. 2016, tr. 15.
(Tiếp theo: II - Giải pháp phòng, chống tham nhũng “vặt”)
Tham nhũng “vặt”,giải pháp phòng chống
Học viện Quốc phòng quán triệt, vận dụng Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XIII) vào công tác huấn luyện - đào tạo, nghiên cứu khoa học 14/11/2024
Quân khu 4 lãnh đạo xây dựng khu vực phòng thủ theo Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XIII) 04/11/2024
Tư duy của Đảng về phát triển công nghiệp quốc phòng, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới (Tiếp theo và hết) 28/10/2024
Quân đoàn 3 trước yêu cầu xây dựng tinh, gọn, mạnh, tiến lên hiện đại 17/10/2024
Quân khu 3 nâng cao chất lượng công tác hậu cần theo Nghị quyết số 1658-NQ/QUTW 07/10/2024
Tư duy của Đảng về phát triển công nghiệp quốc phòng, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới 26/09/2024
Quân khu 5 xây dựng lực lượng vũ trang vững mạnh theo Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XIII) 12/09/2024
Bộ Tư lệnh Bảo vệ Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh quán triệt, thực hiện chuẩn mực đạo đức của cán bộ, đảng viên 05/09/2024
Tư duy của Đảng về phát triển công nghiệp quốc phòng, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới 26/08/2024
Vận dụng phương châm “dĩ bất biến, ứng vạn biến” trong sự nghiệp quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc* 22/08/2024
Tư duy của Đảng về phát triển công nghiệp quốc phòng, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới (Tiếp theo và hết)
Quân khu 4 lãnh đạo xây dựng khu vực phòng thủ theo Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XIII)
Học viện Quốc phòng quán triệt, vận dụng Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XIII) vào công tác huấn luyện - đào tạo, nghiên cứu khoa học