Thứ Bảy, 23/11/2024, 02:04 (GMT+7)
Đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống Quán triệt, thực hiện nghị quyết
Trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện nay, kinh tế nhà nước (KTNN) cùng với kinh tế tập thể dần dần trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân là quan điểm được xác định nhất quán trong các văn kiện của Đảng và các văn bản pháp quy của Nhà nước ta. Để giữ vững định hướng XHCN của nền kinh tế, trong giai đoạn mới cần phải tăng cường vai trò chủ đạo của KTNN. Hiện nay, thành phần kinh tế nhà nước ở nước ta được cấu trúc từ hai bộ phận: hệ thống doanh nghiệp và bộ phận phi doanh nghiệp. Trong đó, hệ thống doanh nghiệp nhà nước (DNNN) được xác định là “lực lượng nòng cốt”. Việc xác định vai trò chủ đạo của KTNN thông qua vai trò của DNNN, dựa trên các nội dung cơ bản: nắm vững những ngành và lĩnh vực then chốt để phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế; làm đòn bẩy thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội, mở đường, hướng dẫn các thành phần kinh tế khác cùng phát triển; đi đầu trong việc ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, nêu gương về năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế - xã hội và chấp hành pháp luật; là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế; tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy các thành phần khác cùng phát triển.
Trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện nay, kinh tế nhà nước (KTNN) cùng với kinh tế tập thể dần dần trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân là quan điểm được xác định nhất quán trong các văn kiện của Đảng và các văn bản pháp quy của Nhà nước ta. Để giữ vững định hướng XHCN của nền kinh tế, trong giai đoạn mới cần phải tăng cường vai trò chủ đạo của KTNN.
Trong những năm đổi mới vừa qua, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách, giải pháp đổi mới và phát triển DNNN nhằm phát huy vai trò của KTNN trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Bởi vậy, dù số lượng các DNNN giảm, nhưng quy mô của mỗi doanh nghiệp lại tăng lên. Đến cuối năm 2008, số lượng doanh nghiệp mà Nhà nước nắm 100% vốn điều lệ chỉ còn 14,3% so với đầu những năm 1990, nhưng mức trang bị tài sản và đầu tư tài chính dài hạn tăng từ 39,91 tỷ đồng (năm 2000) lên 257,75 tỷ đồng (năm 2008)1. Các DNNN chiếm gần 50% tổng giá trị tài sản và đầu tư tài chính của các loại hình doanh nghiệp; 80% số dư vốn tín dụng của các ngân hàng thương mại trong nước; 70% vốn cho vay nước ngoài và 11,5% lực lượng lao động xã hội2. Năm 2008, các DNNN (chủ yếu là các tập đoàn kinh tế (TĐKT) và tổng công ty nhà nước (TCTNN)) đóng góp trên 35% GDP, tạo ra 39,5% giá trị sản xuất công nghiệp, trên 50% kim ngạch xuất khẩu; đóng góp khoảng 50% ngân sách, góp phần tăng đầu tư và giải quyết các vấn đề xã hội3.
Cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu trong các năm 2008-2009 đã gây ra những biến động lớn trong nền kinh tế nước ta. Các DNNN là lực lượng quan trọng được Nhà nước sử dụng để kiềm chế lạm phát, ổn định thị trường, ngăn chặn suy giảm kinh tế và đảm bảo an sinh xã hội... Điều đó đã góp phần quan trọng vào tăng trưởng kinh tế cao của nền kinh tế nước ta so với các nước trong khu vực và trên thế giới .
Tuy nhiên, sự phát triển của KTNN, DNNN chưa tương xứng với đầu tư và ưu đãi của Nhà nước. Việc quản lý các tài sản thuộc sở hữu toàn dân, đặc biệt là đất đai và hoạt động của các DNNN còn nhiều hạn chế. Năng suất, chất lượng và hiệu quả của các DNNN còn thấp. Nhiều DNNN không đảm bảo được an toàn về tài chính, tỷ lệ nợ trên vốn quá cao, một số công ty có số nợ phải trả gấp 5 lần vốn nhà nước tại công ty. Năm 2008, theo kết quả kiểm toán, tổng số nợ của các DNNN lên tới 181.000 tỷ đồng4; độc quyền nhà nước, độc quyền kinh doanh còn đang hiện hữu; tình trạng lợi dụng tài sản của Nhà nước phục vụ lợi ích cá nhân hoặc lợi ích nhóm và hoạt động vượt khỏi tầm kiểm soát của Nhà nước đang là vấn đề “nóng” trong các DNNN.
Nguyên nhân những hạn chế, yếu kém của các DNNN có cả chủ quan và khách quan, trong đó nguyên nhân chủ quan là chính. Đó là, hệ thống các DNNN, nhất là các TĐKT và TCTNN, phần lớn được hình thành từ các quyết định hành chính, chứ không xuất phát từ những vấn đề kinh tế, kỹ thuật và không phù hợp với quy luật kinh tế thị trường. Thể chế, cơ chế, chính sách, pháp luật đối với hệ thống DNNN (nhất là đối với các TĐKT và TCTNN) chưa được hoàn thiện, còn nhiều hạn chế, bất cập. Năng lực quản trị của các doanh nghiệp, chất lượng nguồn nhân lực... chưa đáp ứng được đòi hỏi của thị trường, nền kinh tế và yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế.
Yêu cầu của sự phát triển đất nước thời kỳ 2011-2020 là phát triển nhanh và bền vững; phát huy tối đa nhân tố con người; phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất dựa trên trình độ khoa học và công nghệ cao; đồng thời, hoàn thiện quan hệ sản xuất và thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Để đáp ứng yêu cầu trên, một trong những giải pháp quan trọng là phải tăng cường vai trò chủ đạo của KTNN trong giai đoạn mới. Theo đó, chúng ta cần tiến hành đồng bộ các nội dung, giải pháp chủ yếu sau:
Một là, quán triệt quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước về phát triển cơ cấu kinh tế nhiều thành phần.Tiếp tục thực hiện nhất quán, lâu dài phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần với sự đa dạng các hình thức sở hữu và tổ chức sản xuất - kinh doanh (SXKD). Phát triển nhanh và hài hòa các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp, khuyến khích phát triển các hình thức tổ chức SXKD với sở hữu hỗn hợp mà chủ yếu là doanh nghiệp cổ phần để loại hình kinh tế này trở thành phổ biến trong nền kinh tế. Xây dựng và hoàn thiện cơ chế đảm bảo tôn trọng quyền tự do kinh doanh và bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Thực hiện Chương trình quốc gia về phát triển doanh nghiệp gắn với quá trình cơ cấu lại doanh nghiệp; hỗ trợ phát triển mạnh các doanh nghiệp nhỏ và vừa, tạo điều kiện để phát triển các doanh nghiệp lớn, có sức cạnh tranh trên thị trường.
Hai là, nâng cao trình độ kỹ thuật, công nghệ sản xuất và chất lượng nguồn nhân lực trong các DNNN. Trong những năm qua, các doanh nghiệp nói chung, DNNN nói riêng đã tích cực đổi mới, nâng cao trình độ công nghệ, máy móc, thiết bị, góp phần tạo ra nhiều sản phẩm mới, có giá trị kinh tế cao... Tuy thế, hiện nay trình độ công nghệ của ta còn lạc hậu từ 3-4 thế hệ so với những nước công nghiệp phát triển. Tỷ trọng các doanh nghiệp có công nghệ cao còn thấp; tốc độ đổi mới công nghệ còn chậm... Do đó, các DNNN (nhất là các doanh nghiệp lớn, TĐKT và TCTNN), cần phải nâng cao trình độ kỹ thuật, công nghệ theo hướng: nâng cao năng lực, đổi mới cơ chế quản lý kỹ thuật-công nghệ, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ cao; cải tiến công nghệ và sáng tạo công nghệ mới, sử dụng hợp lý công nghệ dùng nhiều lao động. Nhà nước cần có chính sách khuyến khích, hỗ trợ các DNNN và các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đổi mới công nghệ, làm chủ các công nghệ then chốt, mũi nhọn và đẩy mạnh sản xuất các sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao.
Cùng với đó, việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực (học vấn, thể lực, kỹ năng nghề nghiệp, trình độ tay nghề, năng lực quản lý, điều hành...) của các DNNN là vấn đề có ý nghĩa quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Bởi vậy, các DNNN cần tập trung vào nhóm nguồn nhân lực chất lượng cao. Theo đó, cần chú trọng đào tạo và bồi dưỡng nâng cao trình độ tay nghề, chuyên môn kỹ thuật, đạo đức nghề nghiệp, kiến thức văn hóa cho người lao động. Đối với đội ngũ cán bộ làm công tác kỹ thuật, công nghệ, các kỹ thuật viên cần nâng cao năng lực tiếp nhận chuyển giao công nghệ, đổi mới công nghệ và sáng tạo công nghệ mới phù hợp với yêu cầu phát triển của doanh nghiệp; trình độ ngoại ngữ và năng lực hội nhập kinh tế quốc tế. Đối với đội ngũ làm công tác lãnh đạo, quản lý, cần chú ý nâng cao trình độ, kiến thức, năng lực quản lý, điều hành doanh nghiệp, khả năng kinh doanh, quản lý vốn đầu tư và quản trị, điều hành phối hợp hoạt động của các doanh nghiệp thành viên, doanh nghiệp liên kết; đồng thời, bố trí cán bộ quản lý phù hợp với lĩnh vực ngành nghề, xác định rõ trách nhiệm và quyền lợi của đội ngũ cán bộ quản lý gắn với kết quả và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.
Ba là, tăng quyền tự chủ và nâng cao tính tự chịu trách nhiệm của DNNN, đổi mới căn bản cơ chế đại diện chủ sở hữu và cơ chế giám sát hoạt động của các DNNN. Là một chủ thể của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, DNNN phải được bảo đảm quyền tự chủ trong SXKD và tự chịu trách nhiệm về kết quả SXKD. Muốn vậy, Nhà nước cần xác định rõ quyền của Nhà nước với tư cách là chủ sở hữu vốn DNNN; tách bạch quyền quản lý của Nhà nước và quyền kinh doanh của doanh nghiệp; bố trí đúng đội ngũ cán bộ quản lý, điều hành doanh nghiệp theo nguyên tắc giao tài sản cho người có khả năng quản lý một cách có hiệu quả cao. Đồng thời, Nhà nước cần hoàn thiện cơ cấu tổ chức quản lý DNNN. Vấn đề có tầm quan trọng hiện nay đối với công tác quản lý, điều hành DNNN là phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi của Hội đồng quản trị và Giám đốc (Tổng giám đốc) được cơ quan quản lý có thẩm quyền bổ nhiệm.
Gắn liền với việc tăng quyền tự chủ và nâng cao tính tự chịu trách nhiệm trong SXKD của các DNNN, cần đổi mới cơ chế thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu của Nhà nước theo hướng thu hẹp và tiến tới các bộ và ủy ban nhân dân các tỉnh (thành phố) không còn chức năng đại diện chủ sở hữu đối với DNNN theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 5 (khóa X). Để đổi mới cơ chế thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu của Nhà nước, cần tách bạch chức năng chủ sở hữu DNNN ra khỏi chức năng quản lý nhà nước nhằm đảm bảo tính khách quan trong hành xử của các cơ quan quản lý nhà nước với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế; củng cố và phát huy vai trò của Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước (SCIC) trong kiểm tra, giám sát các DNNN quản lý và sử dụng vốn của Nhà nước. Bản thân SCIC cũng phải đảm bảo hiệu quả quản lý và sử dụng vốn và tài sản thuộc sở hữu nhà nước.
Cùng với đó, cần đặc biệt chú trọng cơ chế giám sát hoạt động của DNNN, nhằm hướng tới thiết lập trật tự, kỷ cương trong hoạt động kinh tế. Đây là điều kiện tối cần thiết để bảo toàn và phát triển vốn thuộc sở hữu nhà nước, bảo đảm vốn của Nhà nước hướng vào những mục tiêu ưu tiên của Nhà nước, phục vụ phát triển kinh tế-xã hội và đảm bảo cho Nhà nước kiểm soát được hoạt động của các DNNN.
Bốn là, nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý của Nhà nước phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN. Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, Nhà nước có vai trò “kép”, vừa là người điều hành, quản lý thống nhất nền kinh tế quốc dân, vừa là người chủ sở hữu các DNNN.
Với tư cách là người điều hành, quản lý kinh tế vĩ mô, Nhà nước định hướng và điều tiết đầu tư của các chủ thể kinh tế (trong đó có các DNNN) vào phát triển kinh tế-xã hội. Nhà nước phân bổ, quản lý và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của mình. Điều này đòi hỏi Nhà nước không thể dành những ưu ái cho DNNN nhằm tạo lập “lực lượng vật chất mạnh” để định hướng, điều tiết kinh tế vĩ mô, mà phải đưa các DNNN vào hoạt động trong môi trường liên kết, cạnh tranh bình đẳng với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Cần chấm dứt tình trạng Nhà nước sử dụng nguồn vốn từ phát hành trái phiếu quốc tế cho các DNNN vay lại hoặc bảo lãnh cho các DNNN vay vốn tín dụng quốc tế; quản lý đầu tư của các DNNN cần tập trung vào những lĩnh vực, ngành nghề, sản phẩm chính của các DNNN đó, ngăn ngừa tình trạng đầu tư phân tán, dàn trải... Đó chính là một trong những điều kiện nâng cao khả năng cạnh tranh và phát huy vai trò của DNNN trong nền kinh tế nhiều thành phần.
Với tư cách là chủ sở hữu KTNN và DNNN, Nhà nước cần nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý của mình đối với DNNN. Bởi, quy mô của sở hữu nhà nước và KTNN sẽ tăng lên gắn với điều kiện nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý nhà nước. Các cơ quan quản lý nhà nước cần tập trung thực hiện chức năng kiểm tra, kiểm soát, giám sát các DNNN; chú trọng những giải pháp phòng ngừa sai phạm có thể xảy ra trong hoạt động quản lý SXKD của doanh nghiệp. Điều quan trọng nhất là, yêu cầu các doanh nghiệp phải công khai, minh bạch các thông tin về hoạt động kinh tế (trừ các thông tin thuộc bí mật quốc gia và bí quyết công nghệ, kinh doanh của doanh nghiệp).
Nhà nước cần phải tiếp tục đổi mới cơ chế thực hiện chức năng kiểm tra, kiểm soát các hoạt động kinh tế. Cùng với việc củng cố các bộ phận thực hiện chức năng kiểm tra, giám sát trong mỗi cơ quan ở mỗi cấp, chúng ta cần nghiên cứu thành lập hệ thống kiểm tra, giám sát độc lập với hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước trực tiếp thực hiện các chức năng điều hành các hoạt động kinh tế. Đây là điều kiện cơ bản đảm bảo tính khách quan khi thực hiện chức năng kiểm tra, kiểm soát. Trách nhiệm của Quốc hội là phải phát huy vai trò trong việc giám sát, quản lý và sử dụng vốn nhà nước nói chung và vốn của Nhà nước tại các DNNN nói riêng. Ngoài các hoạt động giám sát thường xuyên, Quốc hội cần chú trọng tổ chức các giám sát chuyên đề, như hoạt động kiểm tra, giám sát của Quốc hội với các TĐKTNN thời gian qua.
Thực hiện đồng bộ các nội dung trên đây, chúng ta sẽ tăng cường được vai trò chủ đạo của KTNN trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu: "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".
GS, TS. CHU VĂN CẤP
Học viện CT-HC Quốc gia Hồ Chí Minh
__________
1, 2, 3 - Đề tài khoa học KX.04.09/06-10: Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam (Báo cáo tổng hợp), do GS,TS. Nguyễn Kế Tuấn làm chủ nhiệm, nghiệm thu 6-2010, tr.128, 129.
4- Theo Báo cáo của Ủy ban Thường vụ Quốc hội ngày 5-11-2009.
Học viện Quốc phòng quán triệt, vận dụng Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XIII) vào công tác huấn luyện - đào tạo, nghiên cứu khoa học 14/11/2024
Quân khu 4 lãnh đạo xây dựng khu vực phòng thủ theo Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XIII) 04/11/2024
Tư duy của Đảng về phát triển công nghiệp quốc phòng, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới (Tiếp theo và hết) 28/10/2024
Quân đoàn 3 trước yêu cầu xây dựng tinh, gọn, mạnh, tiến lên hiện đại 17/10/2024
Quân khu 3 nâng cao chất lượng công tác hậu cần theo Nghị quyết số 1658-NQ/QUTW 07/10/2024
Tư duy của Đảng về phát triển công nghiệp quốc phòng, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới 26/09/2024
Quân khu 5 xây dựng lực lượng vũ trang vững mạnh theo Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XIII) 12/09/2024
Bộ Tư lệnh Bảo vệ Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh quán triệt, thực hiện chuẩn mực đạo đức của cán bộ, đảng viên 05/09/2024
Tư duy của Đảng về phát triển công nghiệp quốc phòng, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới 26/08/2024
Vận dụng phương châm “dĩ bất biến, ứng vạn biến” trong sự nghiệp quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc* 22/08/2024
Tư duy của Đảng về phát triển công nghiệp quốc phòng, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới (Tiếp theo và hết)
Quân khu 4 lãnh đạo xây dựng khu vực phòng thủ theo Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XIII)
Học viện Quốc phòng quán triệt, vận dụng Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XIII) vào công tác huấn luyện - đào tạo, nghiên cứu khoa học