Đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống Quán triệt, thực hiện nghị quyết

QPTD -Thứ Năm, 10/11/2016, 15:42 (GMT+7)
Quan điểm của Đảng về kết hợp quốc phòng, an ninh, đối ngoại trong bối cảnh hội nhập

Trong văn kiện các kỳ đại hội Đảng nói chung, văn kiện Đại hội XII của Đảng nói riêng, kết hợp quốc phòng với an ninh và đối ngoại là nội dung quan trọng, được đề cập sâu, có hệ thống và trở thành quan điểm cơ bản của Đảng ta. Vì thế, sự kết hợp đó cần được quán triệt và triển khai thực hiện nghiêm túc, hiệu quả.

Thực tiễn đã khẳng định, kết hợp quốc phòng, an ninh, đối ngoại luôn là vấn đề có tầm quan trọng chiến lược, quyết định thắng lợi sự nghiệp cách mạng Việt Nam trong mỗi thời kỳ, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Sự kết hợp đó là tất yếu khách quan và trở thành quy luật, đồng thời cũng là yêu cầu cấp thiết đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay. Tuy nhiên, kinh nghiệm thực tiễn còn chỉ ra rằng, hiệu quả của sự kết hợp đó đạt đến mức độ nào, phụ thuộc vào nhiều yếu tố; trong đó phụ thuộc trước hết vào việc nhận thức, vận dụng nó đến đâu, có đúng quy luật và phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nước cũng như bối cảnh tình hình quốc tế hay không.

Trên cơ sở các bài học kinh nghiệm từ công cuộc đổi mới đất nước suốt 30 năm qua và từ sự phân tích, đánh giá đúng tình hình trong nước, khu vực và thế giới thời gian tới, Đại hội XII của Đảng chỉ rõ: “Kết hợp chặt chẽ giữa quốc phòng, an ninh và đối ngoại”1, đáp ứng sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Đây là quan điểm cơ bản, thể hiện sâu sắc sự phát triển tư duy lý luận của Đảng ta về quốc phòng, an ninh, đối ngoại, nhất là tầm quan trọng của sự kết hợp các lĩnh vực đó trong việc tạo sức mạnh tổng hợp để phát triển đất nước, bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Sự phát triển tư duy của Đảng không chỉ dừng lại ở việc đề cập mục tiêu, yêu cầu kết hợp, mà còn thể hiện trong việc xác định rõ giải pháp kết hợp các lĩnh vực đó với nhau trong bối cảnh nước ta hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.

Chúng ta biết, tại các kỳ đại hội trước, việc kết hợp giữa các lĩnh vực nêu trên được Đảng ta đề cập theo hướng: “Bổ sung quy chế phối hợp hoạt động giữa quốc phòng, an ninh và đối ngoại” trong một số hoạt động cụ thể (Đại hội X) và “Tiếp tục mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh” (Đại hội XI). Đến Đại hội XII, căn cứ vào tình hình thực tiễn, Đảng ta yêu cầu việc kết hợp đó phải bảo đảm tính toàn diện, đồng bộ và chặt chẽ trên tất cả các nội dung và địa bàn, từ vi mô đến vĩ mô, cả ở trong và ngoài nước. Điều đó cho thấy, thực chất quan điểm trên là sự kế thừa, phát triển tư tưởng giữ nước của dân tộc và trở thành quan điểm của Đảng ta trong sự nghiệp giải phóng dân tộc trước đây, công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong những năm qua cũng như vận dụng phù hợp với điều kiện của đất nước trong tình hình mới. Tư duy đó của Đảng còn thể hiện tính độc lập, tự chủ, sự linh hoạt, sáng tạo, nhanh nhạy trong đánh giá tình hình, đối tác, đối tượng,… tạo cơ sở cho việc hoạch định đường lối bảo vệ Tổ quốc.

Điểm mới của quan điểm được thể hiện ở chỗ, lần đầu tiên, cùng với chỉ rõ sự kết hợp chặt chẽ giữa quốc phòng, an ninh và đối ngoại, Đảng ta nhấn mạnh việc “tăng cường hợp tác quốc tế về quốc phòng, an ninh” và xem đó là một trong những giải pháp cơ bản, tạo đột phá nhằm tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, thông qua sự kết hợp đó trong điều kiện mới. Điều đó không chỉ khẳng định vị trí, tầm quan trọng của công tác đối ngoại trong thời kỳ hội nhập và phát triển, mà còn phản ánh quan hệ biện chứng, không tách rời, thúc đẩy lẫn nhau giữa các thành tố của sự kết hợp này. Trong đó, quốc phòng, an ninh vừa có quan hệ mật thiết với nhau, vừa là cơ sở, mục tiêu cho hoạt động đối ngoại. Đến lượt nó, hoạt động đối ngoại có tác động mạnh mẽ nhằm nâng cao tiềm lực và hiệu quả hoạt động của quốc phòng, an ninh. Đặc biệt hiện nay, trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế diễn ra sâu rộng, tại thời điểm và hoàn cảnh cụ thể, mặt trận đối ngoại còn trở thành mũi đột phá, quyết định tới thắng lợi của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Như vậy, có thể thấy, nội hàm của sự kết hợp trên rất rộng, có tính đan cài nhau, với nhiều nhiệm vụ và chức năng đặc thù, nhưng đều chung mục đích là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia; tăng cường vị thế của đất nước; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để nước ta phát triển nhanh, bền vững.

Thời gian tới, dưới tác động của toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, dự báo tình hình thế giới, khu vực sẽ có những thay đổi nhanh, diễn biến phức tạp và tiềm ẩn nguy cơ mất ổn định khó lường. Các vấn đề về tranh chấp chủ quyền, lãnh thổ ở Biển Đông, tội phạm xuyên quốc gia, thiên tai, dịch bệnh,… tiếp tục gia tăng và không loại trừ có đột biến mới. Ở trong nước, các thế lực thù địch đẩy mạnh chống phá bằng chiến lược “Diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”,… hòng xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa. Vì thế, tăng cường kết hợp quốc phòng, an ninh và đối ngoại, nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc phải được quán triệt đầy đủ, nghiêm túc từ Trung ương đến các địa phương; trên cơ sở đó, triển khai đồng bộ các giải pháp; tập trung vào một số nội dung chủ yếu sau:

Một là, tăng cường phối hợp trong nghiên cứu, đánh giá, dự báo tình hình liên quan và tác động trực tiếp đến sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Đây là nội dung quan trọng hàng đầu trong kết hợp quốc phòng, an ninh và đối ngoại, bởi kết quả nghiên cứu, dự báo trên các lĩnh vực này đều là những vấn đề hệ trọng, tác động đến mọi mặt của đời sống xã hội và quan trọng hơn là liên quan trực tiếp đến vận mệnh của quốc gia, dân tộc. Hơn nữa, những thông tin tình hình trên các lĩnh vực đó thường đa dạng, phức tạp và được “ngụy trang” bằng nhiều chiêu thức tinh vi, rất khó nhận biết về bản chất. Vì thế, đòi hỏi phải có sự phối hợp, hiệp đồng chặt chẽ giữa các cấp, các lực lượng của Bộ Quốc phòng, Bộ Công an và Bộ Ngoại giao, nhằm thu thập, nghiên cứu, đánh giá để đưa ra các dự báo chính xác, kịp thời phục vụ đắc lực cho nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Theo đó, những vấn đề bên ngoài, như: các chiến lược, chính sách, thậm chí thái độ, động thái,… của các nước có quan hệ trực tiếp, gián tiếp với Việt Nam cũng như các trào lưu, xu hướng của khu vực và thế giới là nội dung quan trọng cần tập trung phối hợp nghiên cứu, đánh giá một cách thấu đáo. Bên cạnh đó, các nhân tố bên trong, cả chủ quan và khách quan đã, đang tác động trực tiếp đến sự phát triển kinh tế, sự ổn định về chính trị, xã hội,… cùng những mục đích thực chất của các dự án kinh tế nước ngoài trên từng khu vực, địa bàn với cả hai chiều thuận, nghịch cần được thu thập, nghiên cứu, đánh giá một cách khách quan, khoa học. Hiện nay, cùng với quá trình hội nhập và phát triển, các biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” cũng là vấn đề nổi cộm, cần được phối hợp nghiên cứu, đánh giá, làm rõ những căn nguyên sâu xa cùng các phương thức tác động chủ yếu, cả từ bên trong và bên ngoài để có giải pháp ngăn chặn hiệu quả. Quá trình phối hợp phải chặt chẽ ở tất cả các nội dung, khâu, bước; từ xác định chủ đề, nội hàm chủ yếu của vấn đề nghiên cứu, dự báo; cơ chế cung cấp, trao đổi thông tin; hoạt động tư vấn, chuyên gia, hội thảo,… đến phối hợp tổ chức thực hiện trên từng nội dung, nhất là các vấn đề có tính chiến lược.

Hai là, nâng cao chất lượng, hiệu quả phối hợp tham mưu, đề xuất với Đảng, Nhà nước trong việc xác định chủ trương, sách lược giải quyết đúng đắn các vấn đề về đối nội và đối ngoại, không để xảy ra bị động, bất ngờ về chiến lược. Đây là công việc hệ trọng, phức tạp và khó khăn mà một cơ quan, một lực lượng khó lòng thực hiện và khó tránh khỏi cách nhìn phiến diện, nên rất cần sự phối hợp giữa quốc phòng, an ninh và đối ngoại. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, dự báo, các lực lượng, nhất là lực lượng chuyên trách thuộc Bộ Quốc phòng, Bộ Công an và Bộ Ngoại giao cần chủ động phối hợp trong đánh giá, kết luận tình hình để tham mưu cho Đảng, Nhà nước theo hướng: nội dung thuộc chức năng, nhiệm vụ của cơ quan nào, cơ quan đó giữ vai trò chủ trì, phối hợp; tránh tình trạng trùng lắp, thiếu tính hệ thống, gây lãng phí nhân lực, vật lực và hạn chế chất lượng tham mưu, đề xuất. Yêu cầu phối hợp tham mưu phải bảo đảm khách quan, khoa học, đúng, trúng, kịp thời. Nội dung tham mưu phải toàn diện, nhưng cần tập trung có trọng điểm, hướng vào những vấn đề cấp bách do thực tiễn đặt ra. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế diễn ra sâu rộng; sự tồn tại đan xen lợi ích giữa các quốc gia đang là xu thế lớn thì những vấn đề về xác định đối tác, đối tượng cùng các mối đe dọa đến sự ổn định của đất nước là những nội dung trọng tâm cần phối hợp tham mưu, đề xuất.

Để phối hợp chặt chẽ, hiệu quả, các bộ, ngành nói chung, nhất là Bộ Quốc phòng, Bộ Công an và Bộ Ngoại giao cần có cách nhìn biện chứng về đối tác, đối tượng, theo tinh thần của Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI). Tuy nhiên, nghiên cứu sâu Nghị quyết và từ kinh nghiệm thực tiễn cho thấy, đối tượng có hai loại: đối tượng của cách mạng Việt Nam và đối tượng tác chiến của lực lượng vũ trang nhân dân. Theo đó, đối tượng của cách mạng Việt Nam liên quan đến sự mất còn của chế độ xã hội chủ nghĩa; còn đối tượng tác chiến của lực lượng vũ trang nhân dân thì chỉ khi xảy ra xung đột hoặc chiến tranh mới lộ diện và khi đó mới xác định rõ. Vì vậy, việc kết hợp quốc phòng, an ninh, đối ngoại trong xác định đối tác, đối tượng, xu thế vận động của quan hệ quốc tế,… phải theo đúng quan điểm của Đảng, bảo đảm tính khách quan, toàn diện và lịch sử,… nhưng cũng cần hết sức linh hoạt, tỉnh táo. Trong mọi trường hợp, phải đặt lợi ích quốc gia, dân tộc, độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc và vai trò lãnh đạo của Đảng lên trên hết. Đồng thời, coi đó là điểm tựa, nguyên tắc tạo sự thống nhất trong nhận định, đánh giá cả về thời cơ và nguy cơ để tham mưu cho Đảng, Nhà nước hoạch định, chỉ đạo chiến lược, chính sách đối nội, đối ngoại của đất nước.

Ba là, chủ động phối hợp chặt chẽ các hoạt động trong hội nhập quốc tế, đảm bảo lợi ích quốc gia, dân tộc. Quốc phòng, an ninh, đối ngoại là lĩnh vực quan trọng, nòng cốt của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, nên sự kết hợp giữa các lĩnh vực đó phải bảo đảm chặt chẽ, hài hòa cả về nhận thức và hành động. Trong tình hình phức tạp hiện nay, việc kết hợp chặt chẽ các hoạt động quốc phòng, an ninh và đối ngoại phải tạo ra sức mạnh tổng hợp và thực sự làm nòng cốt cho toàn dân đấu tranh làm thất bại chiến lược “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch cùng các tình huống xâm chiếm chủ quyền, lãnh thổ ở khu vực biên giới, hải đảo của Tổ quốc. Để làm được điều đó, trước hết, các lực lượng cần chủ động xây dựng, bổ sung, hoàn chỉnh các kế hoạch, phương án phối hợp; tổ chức luyện tập, diễn tập thường xuyên để sẵn sàng ứng phó với các tình huống có thể xảy ra. Đồng thời, cần chủ động hướng tới mở rộng việc phối hợp hoạt động giữa các lĩnh vực này ở nhiều hình thức và cấp độ khác nhau, trên nhiều địa bàn, cả ở trong và ngoài nước theo một hệ thống thống nhất, nhằm đấu tranh bảo vệ tốt hơn, toàn diện hơn lợi ích quốc gia, dân tộc. Riêng đối với các tình huống tranh chấp trên biển, sự kết hợp giữa quốc phòng, an ninh, đối ngoại cần đa dạng hóa các hoạt động đấu tranh, cả trên “thực địa”, trong đất liền và trên trường quốc tế; trong đó, lấy hoạt động của quốc phòng, an ninh làm cơ sở, nền tảng, hoạt động đối ngoại là mũi nhọn trực tiếp, trên cơ sở tuân thủ luật pháp và sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế, nhằm giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình. Quá trình thực hiện, phải tuân thủ đúng nguyên tắc, phương thức và quy trình, bảo đảm phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng, hỗ trợ kịp thời cho nhau, nhằm bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước.

Đại tá, ThS. TẠ QUANG CHUYÊN
______________       

1 - ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, H. 2016, tr. 149.

Ý kiến bạn đọc (0)

Đoàn kiểm tra của Ban Bí thư Trung ương Đảng làm việc với Ban cán sự Đảng bộ Tài chính
Sáng 27-9, Thượng tướng Ngô Xuân Lịch, Bí thư Trung ương Đảng, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, Trưởng đoàn kiểm tra của Ban Bí thư Trung ương Đảng làm việc với Ban cán sự Đảng Bộ Tài chính về kết quả thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI),...