Đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống Quán triệt, thực hiện nghị quyết

QPTD -Thứ Sáu, 23/09/2022, 07:56 (GMT+7)
Ngành kỹ thuật Quân đội đẩy mạnh chuyển đổi số

Nghị quyết Đại hội XIII khẳng định: “Xây dựng, hoàn thiện khung khổ pháp lý,... chính sách đặc thù để thúc đẩy quá trình chuyển đổi số, kinh tế số...”1, tạo động lực thúc đẩy sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đây cũng là nhiệm vụ quan trọng, một trong ba khâu đột phá của toàn quân, đòi hỏi ngành Kỹ thuật Quân đội phải quán triệt, triển khai thực hiện sát hợp, hiệu quả.

Chuyển đổi số là sự tích hợp các công nghệ kỹ thuật số vào hoạt động của một ngành, một tổ chức để thay đổi căn bản cách thức vận hành, mô hình, phương thức hoạt động, nhằm mang lại lợi ích và hiệu quả mới. Nói cách khác, đó là sự thay đổi về cách thức quản lý, điều hành,… dựa trên nền tảng kỹ thuật số, hướng tới mục tiêu hiệu quả cao hơn. Nhiều quốc gia sau khi nhận ra tầm quan trọng của chuyển đổi số đã nhanh chóng áp dụng và đạt được những kết quả tích cực, không những tăng trưởng mạnh về kinh tế mà còn gia tăng hiệu quả các hoạt động khác, kể cả đảm bảo quốc phòng, an ninh. Với nước ta, Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều nghị quyết, quyết định, chỉ thị2,... trong đó xác định chuyển đổi số là động lực chính thúc đẩy quá trình hiện đại hóa quốc gia. Quán triệt chủ trương đó, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, xây dựng kế hoạch3, triển khai thực hiện công tác này với nhiều giải pháp quyết liệt, đồng bộ, bước đi khoa học, phù hợp.

Thiếu tướng Đoàn Minh Định, Phó chủ nhiệm Tổng cục Kỹ thuật và  Thiếu tướng Nguyễn Đình Chiến, Phó TGĐ Tập đoàn Công nghiệp - Viễn thông Quân đội (Viettel). Ảnh: viettel.com.vn

Đặc biệt, những năm gần đây, chuyển đổi số đã, đang là xu thế tất yếu của cả quốc gia và toàn quân. Đối với ngành Kỹ thuật Quân đội, nhiệm vụ này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, giúp người chỉ huy và cơ quan kỹ thuật tối ưu hóa quá trình điều hành hoạt động của Ngành trong toàn quân và ở mỗi cấp, mỗi đơn vị; đơn giản hóa, nhanh chóng, kịp thời cung cấp số liệu cần thiết của các đối tượng quản lý kỹ thuật, gồm: vũ khí, trang bị kỹ thuật, hệ thống cơ sở kỹ thuật, đội ngũ cán bộ, nhân viên kỹ thuật, vật tư, ngân sách, v.v. Qua đó, quản lý chặt chẽ, từ xa, theo thời gian thực mọi quy trình hoạt động hằng ngày của vũ khí, trang bị kỹ thuật, các quy trình bảo đảm trang bị, bảo đảm kỹ thuật, quy trình hoạt động của hệ thống cơ sở kỹ thuật và đội ngũ cán bộ, nhân viên kỹ thuật; kịp thời chỉ đạo và can thiệp kỹ thuật khi có sự cố, nâng cao khả năng sẵn sàng chiến đấu, thực hiện quản lý theo vòng đời đối với vũ khí, trang bị kỹ thuật,… tạo điều kiện thuận lợi để Ngành làm tốt công tác bảo đảm kỹ thuật cho toàn quân, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong mọi tình huống.

Tuy nhiên, đây là nhiệm vụ mới, tiến hành trong điều kiện còn nhiều khó khăn, nhất là nguồn nhân lực công nghệ, cơ sở hạ tầng chưa đáp ứng yêu cầu đề ra; trong khi đó, môi trường quân sự đòi hỏi tính bảo mật cao, v.v. Vì vậy, thời gian tới, cùng với toàn quân, ngành Kỹ thuật tiếp tục quán triệt, sâu sắc và tổ chức thực hiện nghiêm túc, hiệu quả các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng về chuyển đối số, tạo nền tảng vững chắc xây dựng Quân đội tiến lên hiện đại; trong đó, cần tập trung vào một số nội dung cơ bản sau:

1. Tăng cường sự lãnh đạo, đẩy mạnh công tác tuyên truyền. Bám sát sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng về chuyển đổi số được thể hiện trong Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng; Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ XI, các cơ quan, đơn vị tăng cường công tác lãnh đạo thông qua tiến hành đồng bộ các giải pháp, trước hết là xây dựng nghị quyết lãnh đạo cả trong dài hạn và ngắn hạn, nhằm thống nhất chủ trương, mục tiêu, cách thức chỉ đạo và tổ chức thực hiện. Đây cũng là cơ sở để tập hợp, phát huy sức mạnh tổng hợp của mọi lực lượng liên quan đến chuyển đổi số trong toàn Ngành cũng như từng đơn vị đối với nhiệm vụ mới mẻ, phức tạp, khó khăn này; đồng thời, tạo nhận thức đúng cho cấp ủy, người chỉ huy và các đầu ngành, đầu chuyên ngành kỹ thuật. Cùng với đó, các cơ quan, đơn vị cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức, xây dựng trách nhiệm cho mọi lực lượng liên quan đến thực hiện nhiệm vụ chuyển đổi số. Công tác tuyên truyền phải dựa trên kế hoạch tổng thể với nhiều hình thức linh hoạt và hiệu quả, như: học tập, sinh hoạt câu lạc bộ kỹ thuật, thi nhận thức, tìm hiểu; xây dựng chuyên mục, chuyên trang trên các phương tiện thông tin đại chúng, nhất là Cổng thông tin điện tử ngành Kỹ thuật, Tạp chí Kỹ thuật và Trang bị; giới thiệu, phổ biến và nhân rộng các điển hình đã thực hiện tốt chuyển đổi số trong từng công đoạn, tạo hiệu ứng lan tỏa mạnh mẽ trong Ngành, v.v.

2. Phát triển nguồn nhân lực, đảm bảo môi trường pháp lý. Đây là yếu tố vật chất đặc biệt, điều kiện quan trọng quyết định đến chất lượng thực hiện chuyển đổi số. Để thực hiện tốt nội dung này, các cơ quan, đơn vị cần quán triệt và thực hiện nghiêm túc quan điểm của Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ nói chung, cán bộ kỹ thuật nói riêng. Trước hết, cần xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhân viên kỹ thuật có đủ năng lực, trình độ, trách nhiệm về lĩnh vực này; trong đó, lãnh đạo, chỉ huy các cơ quan, đơn vị và ngành Kỹ thuật cần được đào tạo, bồi dưỡng về kiến thức, kỹ năng số để chuyển đổi nhận thức, đủ năng lực trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, ứng dụng công nghệ số. Cán bộ, nhân viên kỹ thuật được đào tạo sử dụng thành thạo công cụ số trong triển khai, xử lý công việc. Quá trình thực hiện, Ngành cần phối hợp với các cơ sở đào tạo chuyên ngành, nhất là Học viện Kỹ thuật Quân sự, Viện Khoa học và Công nghệ Quân sự, Tập đoàn Công nghiệp - Viễn thông Quân đội, các trường kỹ thuật,… tăng cường đào tạo, xây dựng, thu hút nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu chuyên môn về chuyển đổi số của Ngành. Đồng thời, tích cực tổ chức tập huấn, huấn luyện, bồi dưỡng tại chỗ về kỹ năng số; chia sẻ tài nguyên số; ứng dụng công nghệ số,… để lan tỏa, tạo môi trường hoạt động số trong đơn vị. Cùng với chuẩn bị về nhân sự, ngành Kỹ thuật cần phối hợp với các cơ quan chức năng rà soát, đề xuất xây dựng, sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế, chính sách phù hợp đặc thù của Ngành nhằm tạo môi trường, điều kiện thuận lợi thực hiện chuyển đổi số. Đồng thời, tích cực tham gia xây dựng tiêu chuẩn chức danh cán bộ, nhân viên kỹ thuật liên quan chuyển đổi số và bộ tiêu chí đánh giá chỉ số chuyển đổi số của Ngành làm cơ sở cho phát triển nguồn nhân lực, tổ chức thực hiện, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ.

3. Tổ chức lực lượng và xây dựng quy chế chỉ đạo, điều hành, hoạt động phù hợp với từng cấp. Chuyển đổi số được thực hiện nhiều bước cả đan xen và tuần tự trong thời gian dài, có nhiều yếu tố phức tạp, liên quan đến nhiều lĩnh vực, nhiều lực lượng, liên quan cả thể chế, quy trình, nền nếp hoạt động, các mặt bảo đảm,… nên cần sự chỉ đạo tập trung, thống nhất, liên tục. Theo đó, các đơn vị cấp trung đoàn trở lên (đơn vị có cơ quan kỹ thuật) cần tổ chức Ban Chỉ đạo chuyển đổi số với chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể, để thay mặt cấp ủy, chỉ huy điều hành thực hiện chuyển đổi số; cần có chiến lược (đối với toàn Ngành), kế hoạch chi tiết theo từng bước hoặc lộ trình chia nhỏ của quá trình chuyển đổi số; định ra các vấn đề chuyên môn trong chuyển đổi số cũng như ban hành các quy định, chế độ kiểm tra, nghiệm thu, báo cáo, sơ kết, tổng kết,... về chuyển đổi số trong toàn Ngành và từng đơn vị. Đồng thời, cần thành lập lực lượng chuyên trách về chuyển đổi số, gồm: lực lượng chuyên môn công nghệ thông tin làm nòng cốt; lực lượng nắm chắc công tác tổ chức và quy trình thực hiện các mặt công tác kỹ thuật cần chuyển đổi số của các chuyên ngành (thường là cơ quan tham mưu kỹ thuật) để phối hợp chặt chẽ với lực lượng chuyên môn. Các lực lượng chuyên trách đó cần được xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn để có đủ thẩm quyền và trách nhiệm hoạt động. Bên cạnh lực lượng chuyên trách, tùy thuộc độ bảo mật của từng lĩnh vực, cần vận dụng nhiều hình thức hợp tác nghiên cứu và triển khai với các lực lượng khác, nhất là trong xây dựng hạ tầng công nghệ, hạ tầng số, nền tảng số và các nhiệm vụ khác của quá trình chuyên môn trong triển khai chuyển đổi số. Trong điều kiện hiện nay, lực lượng chuyên môn công nghệ thông tin có thể tham gia chuyển đổi số của Quân đội còn rất mỏng; theo đó, thời gian tới cần có hướng tổ chức, xây dựng lực lượng này một cách cơ bản, có thể biên chế vào trong tổ chức của Quân đội để thực hiện tốt nhất nhiệm vụ quan trọng này.

4. Tích cực huy động các nguồn lực xây dựng cơ sở hạ tầng khoa học - công nghệ phục vụ chuyển đổi số. Đây là yếu tố vật chất trực tiếp để chuyển đổi số; vì vậy, ngành Kỹ thuật cần triển khai chặt chẽ các bước chuyên môn về chuyển đổi số trong toàn Ngành cũng như từng đơn vị. Trước hết, cần khảo sát, đánh giá, phân tích hiện trạng hệ thống tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ giữa các thành phần; phân tích các quy trình hoạt động cốt lõi hiện tại, đánh giá hiện trạng của dữ liệu và hạ tầng công nghệ, v.v. Từ đó, xác định phương hướng áp dụng các công nghệ cốt lõi đối với những nội dung chuyển đổi số liên quan; xác định mục tiêu cần đạt được đối với các nội dung chuyển đổi số của Ngành và từng đơn vị cả trước mắt và lâu dài; đề xuất các giải pháp công nghệ, tài chính, nhân sự; xác định các chương trình, dự án, lộ trình thực hiện cụ thể. Tận dụng cơ sở hạ tầng số, nền tảng số 4G, 5G, cáp quang, hệ thống truyền dữ liệu số quân sự, các trung tâm dữ liệu, cloud quân sự,… ngành Kỹ thuật và các đơn vị đầu tư trang bị đủ các thiết bị máy tính, máy chủ, thiết bị sao lưu phục hồi, thiết bị mạng, thiết bị an ninh, bảo mật, v.v.

Các dữ liệu cần cập nhật để khai thác của ngành Kỹ thuật Quân đội rất lớn nên phải có kế hoạch, triển khai cụ thể quá trình sử dụng thiết bị số hóa tự động chuyên dụng để tổ chức số hóa, đưa vào lưu trữ dữ liệu. Để quy trình quản lý, chỉ huy và nghiệp vụ được hoạt động thông suốt trên nền tảng số, cần tiến hành số hóa các quy trình đó thông qua sử dụng phần mềm ứng dụng có tính năng phù hợp, xây dựng hệ thống tự động hóa và điều khiển từ xa trong mô hình hoạt động của cơ sở kỹ thuật thông minh. Trên cơ sở đó, tiến hành tích hợp các ứng dụng công nghệ số hóa quy trình và xây dựng nền tảng số. Đây là hoạt động chuyển đổi số cuối cùng để đưa vào sử dụng tại Trung tâm điều hành kỹ thuật của Bộ Quốc phòng và ngành Kỹ thuật dưới sự đảm bảo chặt chẽ về an ninh mạng.

Từ những phân tích trên cho thấy, việc chuyển đổi số nói chung, trong Quân đội nói riêng là cấp bách, thiết thực, điều kiện tiên quyết thúc đẩy hiệu quả hoạt động của ngành Kỹ thuật, góp phần quan trọng vào xây dựng Quân đội tiến lên hiện đại, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Thiếu tướng, PGS, TS. PHẠM DŨNG TIẾN
__________________

1 - ĐCSVN – Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I, Nxb CTQGST, H. 2021, tr. 223.

2 - Gồm: Nghị quyết số 52-NQ/TW, ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị đặt mục tiêu phát triển mạnh mẽ công tác chuyển đổi số; Quyết định số 749/QĐ-TTg, ngày 03/6/2020 của Thủ tướng Chính phủ với mục tiêu đưa Việt Nam trở thành quốc gia số ổn định và thịnh vượng, tiên phong thử nghiệm các công nghệ và mô hình mới, v.v.

3 - Bộ Quốc phòng đã xây dựng, triển khai Kế hoạch số 4396/KH-BQP, ngày 04/11/2021 về phát triển Chính phủ điện tử, hướng tới Chính phủ số trong Bộ Quốc phòng giai đoạn 2022 - 2025, định hướng đến 2030.

 

Ý kiến bạn đọc (0)

Đoàn kiểm tra của Ban Bí thư Trung ương Đảng làm việc với Ban cán sự Đảng bộ Tài chính
Sáng 27-9, Thượng tướng Ngô Xuân Lịch, Bí thư Trung ương Đảng, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, Trưởng đoàn kiểm tra của Ban Bí thư Trung ương Đảng làm việc với Ban cán sự Đảng Bộ Tài chính về kết quả thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI),...