Thứ Bảy, 23/11/2024, 09:54 (GMT+7)
Đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống Quán triệt, thực hiện nghị quyết
Đảng ta khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động,…”1. Vì vậy, học tập, nghiên cứu, vận dụng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh là vấn đề cơ bản để Đảng ta thực sự trí tuệ, đạo đức và văn minh, xứng đáng với niềm tin yêu, ủy thác quyền lãnh đạo Nhà nước và xã hội của nhân dân.
Thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản phát triển mạnh mẽ; đồng thời, bộc lộ những mâu thuẫn gay gắt về kinh tế, xã hội và chính trị, báo hiệu một cuộc cách mạng xã hội mới. C. Mác và Ph. Ăng-ghen đã nghiên cứu, tổng kết toàn diện, sâu sắc về chủ nghĩa tư bản và đưa ra hệ thống quan điểm lý luận dẫn đường cho sự nghiệp cách mạng xây dựng chế độ xã hội mới: chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản thay thế chủ nghĩa tư bản. Đó chính là chủ nghĩa Mác. V.I. Lê-nin đã nghiên cứu sâu sắc những bộ phận cấu thành học thuyết Mác; khẳng định rõ giá trị khoa học, hiện thực của học thuyết này. Không chỉ vậy, V.I. Lê-nin còn phát triển học thuyết Mác trong thời kỳ đầu thế kỷ XX, khi chủ nghĩa tư bản chuyển mạnh sang chủ nghĩa đế quốc và thực hiện chính sách thực dân, tiến hành xâm chiếm, cai trị các nước thuộc địa vì lợi nhuận độc quyền của các tập đoàn tư bản. Sự phát triển sáng tạo về lý luận và chỉ đạo thực tiễn của V.I. Lê-nin và Đảng Bôn-sê-vích Nga đã đưa cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga đi đến thắng lợi. Cống hiến của V.I. Lê-nin được khẳng định cả trên phương diện phát triển lý luận và hoạt động thực tiễn; đồng thời, có phát triển mới về giải quyết vấn đề dân tộc và thuộc địa2, mở ra con đường cách mạng đúng đắn cho các dân tộc thuộc địa đấu tranh tự giải phóng. Theo V.I. Lê-nin, “Không có lý luận cách mạng thì cũng không thể có phong trào cách mạng,... chỉ đảng nào được một lý luận tiền phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò chiến sĩ tiền phong”3.
Việt Nam là quốc gia phong kiến độc lập, bị Pháp xâm lược ngày 01-9-1858 và trở thành thuộc địa của Pháp (06-6-1884). Các phong trào yêu nước chống Pháp liên tiếp nổ ra cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX nhưng đều thất bại, bởi thiếu đường lối dựa trên lý luận khoa học và một chính đảng cách mạng lãnh đạo. Trong quá trình tìm đường cứu nước, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã đến với chủ nghĩa Mác – Lê-nin và tìm thấy ở đó con đường cách mạng đúng đắn, hiện thực. Người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam (03-02-1930) và Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lê-nin làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động. Người nhấn mạnh: Đảng “phải có chủ nghĩa làm cốt”, “Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”4. Vì thế, “trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy”, “Giữ chủ nghĩa cho vững”5. Kiên định, vận dụng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác – Lê-nin trong điều kiện thực tiễn của đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra cương lĩnh, đường lối đúng đắn, lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác (giành độc lập dân tộc, chống thực dân, đế quốc xâm lược, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, sự nghiệp đổi mới).
Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh, học tập chủ nghĩa Mác – Lê-nin không phải là thuộc lòng câu chữ mà là nắm vững bản chất cách mạng, khoa học của nó để vận dụng sáng tạo vào thực tiễn Việt Nam. Người nêu rõ: “phải học tập tinh thần của chủ nghĩa Mác – Lê-nin; học tập lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lê-nin để áp dụng lập trường, quan điểm và phương pháp ấy mà giải quyết tốt những vấn đề thực tế trong công tác cách mạng của chúng ta”6; “Chúng ta phải nâng cao sự tu dưỡng về chủ nghĩa Mác - Lê-nin để dùng lập trường, quan điểm, phương pháp chủ nghĩa Mác - Lê-nin mà tổng kết những kinh nghiệm của Đảng ta, phân tích một cách đúng đắn những đặc điểm của nước ta. Có như thế, chúng ta mới có thể dần dần hiểu được quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam, định ra được những đường lối, phương châm, bước đi cụ thể của cách mạng xã hội chủ nghĩa thích hợp với tình hình nước ta”7. Những chỉ dẫn của Người còn nguyên giá trị chỉ đạo nghiên cứu, học tập chủ nghĩa Mác - Lê-nin trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện nay. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin, cùng với tư duy độc lập, kết tinh những giá trị của dân tộc, thời đại để hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng đó được Đảng thể hiện trong Cương lĩnh, đường lối, làm nên bản chất cách mạng, khoa học của Đảng. Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, lý luận của Đảng được khẳng định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) và bổ sung, phát triển năm 2011. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh đã được Đại hội IX của Đảng (4 - 2001) tổng kết và nêu ra một cách căn bản. Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa XII) về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh khẳng định: “Đó là hệ thống quan điểm, tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội và con người; về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; về sức mạnh của nhân dân, về khối đại đoàn kết toàn dân tộc; về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân; về quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; về xây dựng, phát triển kinh tế và văn hóa, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; về đạo đức cách mạng; về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau; về xây dựng Đảng, v.v.”8. Trong sự nghiệp đổi mới, nhất là sau khi mô hình chủ nghĩa xã hội lâm vào khủng hoảng và sụp đổ ở các nước Đông Âu và Liên Xô, mặt trận tư tưởng, lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam đứng trước những thách thức và yêu cầu mới. Thực tiễn đã chứng minh sức sống và giá trị khoa học bền vững của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Việc Đảng kiên định, bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng, lý luận và phát triển, vận dụng sáng tạo vào thực tiễn Việt Nam, cũng như sự biến đổi của hoàn cảnh quốc tế là nhiệm vụ cơ bản, trọng tâm, là yêu cầu bức thiết để Đảng luôn trong sạch, vững mạnh, thực sự “đạo đức, văn minh”, xứng đáng là đảng cầm quyền theo sự ủy thác, tin cậy của nhân dân. Để làm được điều đó, Đảng đã và đang tập trung thực hiện những nội dung căn bản sau:
Một là, tiếp tục đổi mới tư duy lý luận, phát triển nhận thức làm rõ hơn mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Về bản chất, chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh là giải phóng triệt để giai cấp, dân tộc và con người khỏi áp bức, bất công, tạo dựng một xã hội tốt đẹp vì con người. Ở một nước từng bị nhiều thế lực bên ngoài xâm lược, cai trị như Việt Nam, thì giải phóng dân tộc là vấn đề trên hết, trước hết. Độc lập dân tộc là khát vọng thiêng liêng, là tiền đề, điều kiện để xây dựng và phát triển đất nước. Hồ Chí Minh, từ đấu tranh giành độc lập của dân tộc Việt Nam đi đến khẳng định chân lý: Không có gì quý hơn độc lập, tự do. Đồng thời, Người nhấn mạnh: nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng không có nghĩa lý gì. Độc lập, tự do, hạnh phúc thống nhất trong mục tiêu cao cả của cách mạng do Đảng ta lãnh đạo. Vận dụng chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào thực tiễn Việt Nam, Hồ Chí Minh cho rằng: “Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho dân giàu, nước mạnh”9. Chủ nghĩa xã hội là mang lại cho mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, được học hành, ốm đau được chữa bệnh, có nhà ở tử tế, trẻ con được nuôi dưỡng, người già được chăm sóc. Đó là tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội đã và đang được Đảng hiện thực hóa trong công cuộc đổi mới. Hồ Chí Minh cũng nêu rõ: “Không có chế độ nào tôn trọng con người, chú ý xem xét những lợi ích cá nhân đúng đắn và bảo đảm cho nó được thỏa mãn bằng chế độ xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa”10.
Từ một nước thuộc địa của thực dân Pháp, phát xít Nhật và đế quốc Mỹ, Việt Nam kiên cường, bền bỉ đấu tranh, trở thành quốc gia độc lập, thống nhất. Ngày nay, độc lập dân tộc được củng cố vững chắc; lợi ích quốc gia, dân tộc được đặt lên hàng đầu. Độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, chế độ chính trị do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo theo con đường xã hội chủ nghĩa được củng cố và phát triển bền vững. Đất nước đã phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm độc lập, tự chủ trong điều kiện hội nhập quốc tế; cuộc sống bình yên của nhân dân được đảm bảo bằng hiến pháp và pháp luật. Tổ quốc xã hội chủ nghĩa được bảo vệ vững chắc, với nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân và lực lượng vũ trang nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Đó là những nội dung căn bản của độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội cần được nhận thức sâu sắc.
Kiên định, phát triển, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cũng như từ thực tiễn đổi mới, nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về chủ nghĩa xã hội, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ và không ngừng được hoàn thiện. “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”11. Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang phấn đấu sớm đưa Việt Nam trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, “Mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc”12.
Hai là, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị của một bộ phận cán bộ, đảng viên. Đây là vấn đề cấp thiết hiện nay đối với công tác xây dựng Đảng. Nghiên cứu, học tập chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm nhận thức rõ cơ sở lý luận, khoa học của đường lối, cương lĩnh của Đảng, con đường phát triển của đất nước, củng cố vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng. Thực tế cho thấy vẫn có một bộ phận cán bộ, đảng viên không nhận thức rõ, thậm chí có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị. Để khắc phục hiện tượng này, Đảng đã ban hành Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) Về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Trong đó, nêu rõ 9 biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đặc biệt nhấn mạnh biểu hiện: “Phai nhạt lý tưởng cách mạng; dao động, giảm sút niềm tin vào mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hoài nghi, thiếu tin tưởng vào chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh”; “Xa rời tôn chỉ, mục đích của Đảng; không kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; phụ họa theo những nhận thức lệch lạc, quan điểm sai trái”; “Nhận thức sai lệch về ý nghĩa, tầm quan trọng của lý luận và học tập lý luận chính trị; lười học tập chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước”13. Phân tích tình trạng đó, bên cạnh chỉ ra nguyên nhân khách quan, Đảng ta đặc biệt nhấn mạnh nguyên nhân chủ quan “trước hết là do bản thân những cán bộ, đảng viên đó thiếu tu dưỡng, rèn luyện; lập trường tư tưởng không vững vàng, hoang mang, dao động trước những tác động từ bên ngoài”; “Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên về chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, giảng dạy và học tập nghị quyết của Đảng chưa được coi trọng đúng mức, kém hiệu quả, nội dung và phương pháp giáo dục, truyền đạt chậm đổi mới”14. Để khắc phục tình trạng đó, Đảng ta đề ra các nhóm nhiệm vụ, giải pháp, trước hết về công tác chính trị, tư tưởng: “Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo nâng cao nhận thức trong toàn Đảng về ý nghĩa, vai trò, tầm quan trọng và sự cần thiết của việc học tập, nghiên cứu, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Có kế hoạch học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận bắt buộc hằng năm đối với cán bộ, đảng viên gắn với việc cung cấp thông tin, cập nhật kiến thức mới phù hợp với từng đối tượng, từng cấp, từng ngành, từng địa phương”15. Đây là bảo đảm căn bản nâng cao bản chất cách mạng, khoa học và năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng; đồng thời, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị của một bộ phận cán bộ, đảng viên, chống biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Ba là, kiên quyết đấu tranh chống các thế lực thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng, lý luận của Đảng. Đây là nhiệm vụ cơ bản, thường xuyên, trọng yếu của công tác xây dựng Đảng. Nguy cơ “diễn biến hòa bình” là một trong bốn nguy cơ mà Đảng đã nhận biết từ năm 1994. Đại hội XII của Đảng (01-2016) cho rằng, 04 nguy cơ đó đến nay “vẫn tồn tại, có mặt diễn biến phức tạp”. Nguy cơ “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch với những thủ đoạn mới, “… nhất là triệt để lợi dụng các phương tiện truyền thông trên mạng in-tơ-nét để chống phá ta và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”16 diễn ra trên các lĩnh vực chính trị, tư tưởng, kinh tế, văn hóa, lối sống,... song, nguy hiểm nhất là về tư tưởng chính trị. Tiến công vào nền tảng tư tưởng, lý luận của Đảng, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa; tuyên truyền cổ vũ nền dân chủ tư sản, đòi thực hiện thể chế “tam quyền phân lập”, phát triển “xã hội dân sự”; khuếch trương văn hóa độc hại, lối sống ích kỷ, vụ lợi, hưởng thụ; kích động tư tưởng bất mãn, bất đồng chính kiến trong nội bộ; truyền bá tư tưởng, quan điểm đối lập, đòi thực hiện đa nguyên chính trị và chế độ đa đảng; đòi “phi chính trị hóa” Quân đội và Công an,… là chúng nhắm đến mục đích xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, con đường xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Để làm thất bại âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, đòi hỏi toàn Đảng phải học tập, nghiên cứu nghiêm túc, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, củng cố và bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng, lý luận của Đảng,… bằng cơ sở khoa học và hiện thực để xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa, phát triển đất nước phồn vinh, bảo đảm nhân dân được tự do, hạnh phúc. Đồng thời, luôn đề cao cảnh giác, chú trọng bảo vệ chính trị nội bộ; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên. Kẻ địch luôn lợi dụng sự mất cảnh giác về tổ chức, nội bộ, lợi dụng sự suy thoái, hư hỏng của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý để thúc đẩy tình trạng phóng túng, vô kỷ luật, phá hoại từ trong ra, làm mất sức chiến đấu và vai trò lãnh đạo của Đảng. Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) nêu rõ: “sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống dẫn tới “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” chỉ là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khôn lường, có thể dẫn tới tiếp tay hoặc cấu kết với các thế lực xấu, thù địch, phản bội lại lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc”17.
Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trang bị cho Đảng và mỗi cán bộ, đảng viên tri thức lý luận khoa học cần thiết; đồng thời, rèn luyện về phương pháp luận, phương pháp cách mạng để vượt qua khó khăn, thách thức, đưa sự nghiệp cách mạng và đất nước không ngừng phát triển theo lý tưởng và con đường đã lựa chọn.
PGS, TS. NGUYỄN TRỌNG PHÚC
________________
1 - ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 88.
2 - Trình bày trong Cương lĩnh về vấn đề đền dân tộc và thuộc địa tại Đại hội II Quốc tế Cộng sản, năm 1920.
3 - V.I. Lê-nin - Toàn tập, Tập 6, Nxb Tiến bộ, Mát-xơ-cơ-va, 1975, tr. 30; 32.
4 - Hồ Chí Minh - Toàn tập, Tập 2, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 289.
5 - Sđd, tr. 280.
6 - Sđd, Tập 11, tr. 95.
7 - Sđd, Tập 11, tr. 92.
8 - Báo Nhân Dân, số 22144, ngày 17-5-2016.
9 - Hồ Chí Minh - Toàn tập, Tập 10, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 390.
10 - Sđd, Tập 11, tr. 610.
11 - ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 70.
12 - Sđd, tr. 71.
13 - ĐCSVN - Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Văn phòng Trung ương Đảng, H. 2016, tr. 28.
14 - Sđd, tr. 24.
15 - Sđd, tr. 36-37.
16 - ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 68.
17 - ĐCSVN - Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Văn phòng Trung ương Đảng, H. 2016, tr. 23.
xây dựng Đảng,chủ nghĩa Mác,Lê-nin,Hồ Chí Minh
Học viện Quốc phòng quán triệt, vận dụng Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XIII) vào công tác huấn luyện - đào tạo, nghiên cứu khoa học 14/11/2024
Quân khu 4 lãnh đạo xây dựng khu vực phòng thủ theo Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XIII) 04/11/2024
Tư duy của Đảng về phát triển công nghiệp quốc phòng, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới (Tiếp theo và hết) 28/10/2024
Quân đoàn 3 trước yêu cầu xây dựng tinh, gọn, mạnh, tiến lên hiện đại 17/10/2024
Quân khu 3 nâng cao chất lượng công tác hậu cần theo Nghị quyết số 1658-NQ/QUTW 07/10/2024
Tư duy của Đảng về phát triển công nghiệp quốc phòng, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới 26/09/2024
Quân khu 5 xây dựng lực lượng vũ trang vững mạnh theo Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XIII) 12/09/2024
Bộ Tư lệnh Bảo vệ Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh quán triệt, thực hiện chuẩn mực đạo đức của cán bộ, đảng viên 05/09/2024
Tư duy của Đảng về phát triển công nghiệp quốc phòng, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới 26/08/2024
Vận dụng phương châm “dĩ bất biến, ứng vạn biến” trong sự nghiệp quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc* 22/08/2024
Tư duy của Đảng về phát triển công nghiệp quốc phòng, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới (Tiếp theo và hết)
Quân khu 4 lãnh đạo xây dựng khu vực phòng thủ theo Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XIII)
Học viện Quốc phòng quán triệt, vận dụng Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XIII) vào công tác huấn luyện - đào tạo, nghiên cứu khoa học