Thứ Bảy, 23/11/2024, 07:12 (GMT+7)
Đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống Quán triệt, thực hiện nghị quyết
Hai mươi năm trước, Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VII) đã ra Nghị quyết “Về một số nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng”. Nghị quyết đã nhận định: “Trong Đảng có một bộ phận giảm sút ý chí chiến đấu, phai nhạt lý tưởng, dao động, mất lòng tin, trong đó một số chịu ảnh hưởng của khuynh hướng cơ hội, xét lại, muốn đưa đất nước đi con đường khác; thậm chí đã có người phản bội, đầu hàng. Không ít cán bộ, đảng viên (CB,ĐV) bị chủ nghĩa cá nhân thực dụng cuốn hút, trở nên thoái hóa, hư hỏng. Tệ tham nhũng, hối lộ, buôn lậu, ăn chơi vung phí tài sản của nhân dân rất nghiêm trọng và kéo dài”1. Tại Đại hội VIII, Đảng nêu rõ: “Điều đáng lo ngại là không ít CB,ĐV phai nhạt lý tưởng cách mạng, tha hóa về phẩm chất đạo đức”2. Tiếp đó, Đại hội IX và Đại hội X của Đảng đều nhấn mạnh tình trạng đó có chiều hướng phát triển nghiêm trọng hơn... Đến Đại hội XI, Đảng ta khẳng định: “Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ CB,ĐV và tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu, những tiêu cực và tệ nạn xã hội chưa được ngăn chặn, đẩy lùi mà còn tiếp tục diễn biến phức tạp”3.
Nhận thức rõ tình trạng suy thoái về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ CB,ĐV hiện nay và nguy cơ của vấn đề đó đối với sự nghiệp cách mạng, Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) đã ra Nghị quyết “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”, không những đã tập trung phân tích làm rõ nguyên nhân của tình trạng đó, mà còn xác định mục tiêu, phương châm, giải pháp để khắc phục. Tại Hội nghị cán bộ toàn quốc quán triệt, triển khai Nghị quyết Trung ương 4 (khoá XI), Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ rõ những biểu hiện sự suy thoái về tư tưởng chính trị của CB,ĐV, thể hiện ở chỗ: Phai nhạt lý tưởng cách mạng, không kiên định con đường XHCN; dao động, thiếu niềm tin, sa sút ý chí chiến đấu, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh, phụ họa theo những nhận thức sai, quan điểm lệch lạc; không còn ý thức hết lòng vì nước, vì dân, không làm tròn bổn phận, chức trách được giao; không thực hiện đúng các nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt Đảng... Sự suy thoái về đạo đức, lối sống gắn liền với tư tưởng thực dụng, cơ hội, vụ lợi, hám danh, tham nhũng, lãng phí; bè phái, cục bộ, mất đoàn kết; phong cách quan liêu, xa dân, vô cảm trước khó khăn, bức xúc của dân; lối sống xa hoa, hưởng lạc… trong một bộ phận CB,ĐV, kể cả cán bộ cao cấp của Đảng, Nhà nước. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng đó là, sự thiếu tu dưỡng, rèn luyện, giảm sút ý chí chiến đấu; sa vào chủ nghĩa cá nhân, quên trách nhiệm, bổn phận trước Đảng, trước dân; ngại khó, ngại khổ, ngại va chạm; bất chấp đạo lý, dư luận; kỷ luật, kỷ cương không nghiêm của một bộ phận CB,ĐV; nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý không gương mẫu.
Nhằm đưa Nghị quyết của Đảng vào cuộc sống, Bộ Chính trị đã triệu tập Hội nghị cán bộ toàn quốc để quán triệt mục đích, yêu cầu, nội dung và bốn nhóm giải pháp khắc phục tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận CB,ĐV. Đồng thời, chỉ thị cho toàn Đảng phải thực hiện Nghị quyết một cách kiên quyết, đồng bộ, có trọng tâm, trọng điểm và tính khả thi cao. Để làm được điều đó, Bộ Chính trị yêu cầu các cấp ủy đảng, cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp, phải rà soát, đánh giá đúng thực trạng tình hình CB,ĐV ở địa phương, cơ quan, đơn vị mình và có kế hoạch thực hiện Nghị quyết một cách cụ thể, thiết thực, hiệu quả. Nếu chỉ dừng lại ở việc quán triệt, học tập nghị quyết, sinh hoạt tự phê bình và phê bình một cách chung chung, thì hiệu quả sẽ không cao. Bởi thế, quá trình triển khai, thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI), điều quan trọng nhất là mỗi tập thể, cá nhân phải thẳng thắn nhìn nhận rõ vì sao tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận CB,ĐV vẫn không giảm, mà ngược lại còn trầm trọng, diễn biến phức tạp hơn? Vì sao Cuộc vận động “Xây dựng, chỉnh đốn Đảng”, tự phê bình và phê bình theo Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2, khóa VIII) chưa đạt yêu cầu? Vì sao Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” chưa đi vào chiều sâu, một số nơi còn mang tính hình thức, hiệu quả làm theo chưa cao, chưa đạt yêu cầu? Từ đó, các cấp có biện pháp tiến hành một cách triệt để, với những bước đi vững chắc, hiệu quả, phù hợp với từng đối tượng; kịp thời khắc phục dứt điểm tình trạng hình thức, xuôi chiều, làm theo “thời vụ”, hiệu quả thấp, làm mất lòng tin của quần chúng nhân dân đối với Đảng; tạo kẽ hở để các thế lực thù địch lợi dụng công kích, chống phá Đảng, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Để đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận CB,ĐV, các cấp ủy đảng cần tăng cường công tác giáo dục, nâng cao nhận thức cho mỗi CB,ĐV về mục tiêu, lý tưởng cách mạng mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn; xác định các tiêu chí về đạo đức, lối sống của CB,ĐV gắn với quán triệt Quy định về những điều đảng viên không được làm và chức trách, nhiệm vụ của từng người. Cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp cần có kế hoạch học tập thường xuyên, không ngừng nâng cao trình độ lý luận chính trị, kiến thức và năng lực hoạt động thực tiễn; đồng thời, coi việc học tập cũng là nghĩa vụ bắt buộc đối với mọi CB,ĐV và phải được quy định thành chế độ để mọi người tự giác chấp hành. Hệ thống giáo dục quốc dân, từ phổ thông đến đại học phải được đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; giá trị truyền thống, tinh thần yêu nước, luân lý, đạo đức cách mạng; trách nhiệm và nghĩa vụ công dân, với những chuẩn mực của người Việt Nam trong thời đại mới. Cùng với đó, công tác tư tưởng, lý luận của Đảng phải thường xuyên đổi mới, nhất là về nội dung, phương pháp và phương thức giáo dục, đào tạo cán bộ lãnh đạo, quản lý. Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh; các trường chính trị - hành chính tỉnh, thành phố; hệ thống các học viện, nhà trường trong lực lượng vũ trang cần tích cực đổi mới chương trình, nội dung giáo dục, đào tạo theo hướng toàn diện, chuyên sâu, nhằm nâng cao trình độ lý luận, năng lực tư duy, rèn luyện đạo đức, lối sống và tính Đảng của CB,ĐV, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý cao cấp. Các cấp cần có kế hoạch đào tạo đội ngũ cán bộ, giảng viên lý luận chính trị và những người làm công tác giáo dục, đào tạo một cách nghiêm túc, bài bản, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đặt ra. Trong quá trình thực hiện, các cấp ủy đảng cần phải kết hợp tốt giữa giáo dục, bồi dưỡng, nâng cao lập trường, quan điểm, trình độ trí tuệ, năng lực thực tiễn với rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, tư cách đảng viên; khắc phục mọi biểu hiện trung bình chủ nghĩa, cơ hội, thực dụng, chủ nghĩa cá nhân, mơ hồ mất cảnh giác, giảm sút ý chí chiến đấu và những biểu hiện sa sút về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; bảo đảm không có CB,ĐV suy thoái về chính trị.
Tăng cường hơn nữa tính nghiêm minh của kỷ luật Đảng và pháp luật của Nhà nước trong các tổ chức đảng và các cơ quan nhà nước. Trong điều kiện Đảng cầm quyền, kỷ luật Đảng và pháp luật của Nhà nước có mối quan hệ tương hỗ, gắn bó mật thiết với nhau. Mọi CB,ĐV phải tuân thủ nghiêm ngặt Điều lệ Đảng, những nguyên tắc tổ chức, hoạt động của Đảng, Quy định về những điều đảng viên không được làm; tham gia sinh hoạt và phải chịu sự quản lý chặt chẽ của tổ chức cơ sở đảng, của cấp ủy trực tiếp. Sự quản lý, giám sát của tổ chức đảng, cấp ủy, là một bảo đảm cho mọi CB,ĐV tuân thủ nghiêm ngặt kỷ luật Đảng và pháp luật Nhà nước; đồng thời, góp phần đấu tranh, phòng ngừa những hành vi vi phạm về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Nếu buông lỏng điều đó, sẽ dẫn tới có những đảng viên, nhất là CB,ĐV có chức, có quyền đứng ngoài sự quản lý, giám sát của tổ chức; coi thường kỷ luật, nguyên tắc lãnh đạo của Đảng, cũng như quy định của cơ quan, đơn vị; từ đó, dẫn tới độc đoán, chuyên quyền, đặc quyền, đặc lợi, tham nhũng, lãng phí, xa dân, coi thường tập thể… Mỗi CB,ĐV phải nhận thức sâu sắc rằng, nếu làm điều gì sai, có hại cho Đảng, cho dân, cho nước thì tự hổ thẹn và phải biết tự mình sửa chữa, khắc phục; nếu không làm được điều đó thì cũng có nghĩa tự khai trừ mình ra khỏi Đảng. Kỷ luật Đảng đòi hỏi người đảng viên phải gắn với tổ chức, chấp hành nghiêm các chế độ quy định, đề cao ý thức trách nhiệm trước tập thể, đề cao điều nghĩa. Tức là “ngay thẳng, không có tư tâm, không làm việc bậy, không có việc gì phải giấu Đảng”4. Mỗi người đều có niềm tự hào, lòng tự trọng và sự xấu hổ với lương tâm mình. Tự hào về truyền thống vẻ vang của dân tộc, của Đảng, của sự nghiệp cách mạng và truyền thống gia đình; đồng thời, phải biết xấu hổ về những yếu kém, những việc làm xấu, về hành vi tham nhũng, lãng phí và vì trách nhiệm không làm tròn. Có như vậy, mỗi người mới học được điều hay, lẽ phải, tự tu dưỡng làm cho mình tốt hơn; khắc phục được tính ích kỷ, vụ lợi, hám danh, lòng tham lam, cục bộ, đặc quyền, đặc lợi...
Khâu mấu chốt để khắc phục tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận CB,ĐV hiện nay là đẩy mạnh tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt Đảng. Chỉ thị của Bộ Chính trị về việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) đã xác định, các tổ chức đảng khi tiến hành tự phê bình và phê bình phải nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nhất là những mặt còn yếu kém, không nể nang, né tránh; đề ra các biện pháp khắc phục, sửa chữa thiết thực, khả thi; kết hợp “chống và xây”, “xây và chống”, nói đi đôi với làm, tập trung giải quyết những vấn đề bức xúc, trì trệ nhất hiện nay. Quá trình tiến hành kiểm điểm phải bảo đảm thật sự dân chủ, nghiêm túc, thẳng thắn với tinh thần xây dựng, đúng yêu cầu, nội dung, cách làm, thời gian mà Trung ương, Bộ Chính trị đã đề ra. Kinh nghiệm cho thấy, muốn tự phê bình và phê bình có kết quả tốt, các tổ chức đảng phải tạo được môi trường thuận lợi để mọi đảng viên có điều kiện phấn đấu, rèn luyện, tự điều chỉnh hành vi của mình, tự giác đấu tranh với những khuyết điểm của bản thân; đồng thời, tích cực đóng góp ý kiến phê bình các đồng chí khác, trên tinh thần đoàn kết, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Trong quá trình tiến hành, cấp trên phải làm gương tự phê bình trước, cấp dưới làm sau; tập thể làm trước, cá nhân làm sau; các đồng chí trong thường vụ, cấp ủy viên cấp trên gương mẫu, nghiêm túc tự phê bình và phê bình, làm gương cho cấp dưới; cái gì tốt thì phát huy, cái gì xấu thì tự gột rửa. Cấp ủy, tổ chức đảng, CB,ĐV kiểm điểm tự phê bình và phê bình không đạt yêu cầu phải làm lại; kiên quyết xử lý kỷ luật những tổ chức đảng và cá nhân không tự giác kiểm điểm tự phê bình và phê bình, không tự nhận được sai lầm, khuyết điểm, không khắc phục được những hạn chế, khuyết điểm đã được nêu ra.
Cùng với đó, các cấp cần tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật Đảng của cấp trên với cấp dưới, của tổ chức đảng với đảng viên. Thông qua kiểm tra, giám sát, nhằm quản lý chặt chẽ từng CB,ĐV ở nơi công tác, nơi cư trú và khi công tác xa đơn vị, nhất là đi công tác nước ngoài; phát hiện và xử lý kịp thời những đảng viên vi phạm tư cách, thoái hóa biến chất về đạo đức, lối sống, những phần tử cơ hội, bất mãn, gây mất đoàn kết nội bộ trong Đảng, vi phạm các nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt Đảng. Các cấp ủy, tổ chức đảng cần tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân tham gia xây dựng Đảng; phát huy vai trò giám sát của nhân dân, của báo chí, công luận đối với việc rèn luyện phẩm chất, đạo đức, lối sống của CB,ĐV; có cơ chế khen thưởng những cá nhân, cơ quan báo chí đã tích cực đấu tranh, phê phán những hành động sai trái. Đảng và Nhà nước cần có chế độ, chính sách hợp lý bảo đảm cho CB,ĐV có mức sống ổn định, có điều kiện phát triển đúng với sở trường, công việc của mình; tích cực tham gia công tác xây dựng Đảng, góp phần quan trọng vào rèn luyện đội ngũ CB,ĐV, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
PGS, TS. NGUYỄN TRỌNG PHÚC
1 - ĐCSVN - Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 52, Nxb CTQG, H. 2007, tr. 190.
2 - ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc thời kỳ đổi mới, Phần I (khoá VI, VII, VIII, IX, X), Nxb CTQG, H. 2010, tr. 657.
3 - ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 173.
4 - Hồ Chí Minh - Toàn tập, Tập 5, Nxb CTQG, H. 2001, tr. 252.
Học viện Quốc phòng quán triệt, vận dụng Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XIII) vào công tác huấn luyện - đào tạo, nghiên cứu khoa học 14/11/2024
Quân khu 4 lãnh đạo xây dựng khu vực phòng thủ theo Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XIII) 04/11/2024
Tư duy của Đảng về phát triển công nghiệp quốc phòng, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới (Tiếp theo và hết) 28/10/2024
Quân đoàn 3 trước yêu cầu xây dựng tinh, gọn, mạnh, tiến lên hiện đại 17/10/2024
Quân khu 3 nâng cao chất lượng công tác hậu cần theo Nghị quyết số 1658-NQ/QUTW 07/10/2024
Tư duy của Đảng về phát triển công nghiệp quốc phòng, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới 26/09/2024
Quân khu 5 xây dựng lực lượng vũ trang vững mạnh theo Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XIII) 12/09/2024
Bộ Tư lệnh Bảo vệ Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh quán triệt, thực hiện chuẩn mực đạo đức của cán bộ, đảng viên 05/09/2024
Tư duy của Đảng về phát triển công nghiệp quốc phòng, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới 26/08/2024
Vận dụng phương châm “dĩ bất biến, ứng vạn biến” trong sự nghiệp quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc* 22/08/2024
Tư duy của Đảng về phát triển công nghiệp quốc phòng, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới (Tiếp theo và hết)
Quân khu 4 lãnh đạo xây dựng khu vực phòng thủ theo Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XIII)
Học viện Quốc phòng quán triệt, vận dụng Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XIII) vào công tác huấn luyện - đào tạo, nghiên cứu khoa học