Đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống Quán triệt, thực hiện nghị quyết

QPTD -Thứ Hai, 19/09/2016, 09:13 (GMT+7)
Kết hợp chặt chẽ quốc phòng với an ninh và đối ngoại theo Nghị quyết Đại hội XII của Đảng

Quốc phòng, an ninh và đối ngoại là những nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của đất nước. Bởi vậy, kết hợp chặt chẽ các nhiệm vụ này là yêu cầu tất yếu, khách quan, nhất là trong bối cảnh hiện nay nước ta tham gia hội nhập quốc tế sâu, rộng.

Nếu như trong Văn kiện Đại hội X của Đảng ta, phần quốc phòng, an ninh mới chỉ đề cập: “Bổ sung quy chế phối hợp hoạt động giữa quốc phòng, an ninh, đối ngoại và các bộ, ngành có liên quan trong phân tích, dự báo tình hình và làm tham mưu đề xuất các giải pháp thực hiện.”1; Văn kiện Đại hội XI của Đảng là: “Tiếp tục mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh”2, thì Văn kiện Đại hội XII của Đảng có sự mở rộng về nội hàm, đó là: “Kết hợp chặt chẽ quốc phòng, an ninh và đối ngoại; tăng cường hợp tác quốc tế về quốc phòng, an ninh3. Điều đó cho thấy sự phát triển về tư duy của Đảng trong việc xác định mối quan hệ giữa các lĩnh vực quốc phòng, an ninh và đối ngoại; đồng thời, thể hiện rõ hơn vị trí, tầm quan trọng của công tác đối ngoại trong thời kỳ hội nhập và phát triển.

Trong mối quan hệ quốc phòng, an ninh và đối ngoại thì quốc phòng, an ninh là cơ sở, nền tảng, chỗ dựa cho hoạt động đối ngoại; còn hoạt động đối ngoại góp phần nâng cao tiềm lực và hiệu quả hoạt động của quốc phòng, an ninh. Sự kết hợp đó luôn thống nhất, nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp của đất nước, trên cơ sở kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế. Quốc phòng, an ninh và đối ngoại, mỗi lĩnh vực có vị trí, chức năng, nhiệm vụ riêng, song mối quan hệ giữa các lĩnh vực đó cơ bản có sự thống nhất về mục tiêu, đó là: bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc; đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; giữ gìn an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội; củng cố, tăng cường mối quan hệ Việt Nam với các nước; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước.

Thực tiễn kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược đã khẳng định: một trong những nhân tố cơ bản góp phần làm nên thắng lợi to lớn của cuộc kháng chiến là chúng ta đã kết hợp chặt chẽ giữa ba mặt trận đấu tranh (quân sự, chính trị và ngoại giao), phát huy sức mạnh dân tộc và sức mạnh đoàn kết quốc tế, lấy sức mạnh dân tộc là chủ yếu. Trong đó, hoạt động ngoại giao đã mở rộng đoàn kết quốc tế, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân thế giới, trước hết là Trung Quốc, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa. Sự kết hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa đấu tranh quân sự, chính trị với đấu tranh ngoại giao thể hiện ở phương châm: “vừa đánh vừa đàm”, kết hợp đấu tranh trên chiến trường với đấu tranh trên bàn đàm phán của Hội nghị; trong đó lấy đấu tranh quân sự trên chiến trường giữ vai trò trực tiếp, quyết định.

Bước sang giai đoạn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Quân đội nhân dân và Công an nhân dân thể hiện rõ vai trò làm nòng cốt trong củng cố quốc phòng, bảo đảm an ninh quốc gia. Công tác đối ngoại cũng khẳng định vai trò ngày càng quan trọng đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh mới. Đặc biệt, khi tình hình Biển Đông phức tạp thì trên cơ sở quán triệt quan điểm, đường lối của Đảng, các lực lượng quốc phòng, an ninh và đối ngoại đã phối hợp chặt chẽ với nhau, kiên quyết, kiên trì đấu tranh giữ vững chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước.

Trong những năm tới, tình hình thế giới, khu vực tiếp tục biến động nhanh, phức tạp, khó lường, tuy hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế chủ đạo. Quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế tiếp tục được đẩy mạnh, tạo ra cơ hội, nhưng cũng chứa đựng nhiều thách thức đối với các quốc gia, nhất là các nước đang phát triển. Nhiều vấn đề nổi lên như: tranh chấp chủ quyền biên giới, biển, đảo; thách thức của an ninh phi truyền thống như: nạn khủng bố, tội phạm, môi trường, thảm họa thiên tai, dịch bệnh,... đòi hỏi phải có sự phối hợp giữa nhiều lực lượng cùng giải quyết; đặc biệt là sự kết hợp chặt chẽ giữa quốc phòng, an ninh và đối ngoại. Sự kết hợp đó phải được thực hiện toàn diện, cả trong chiến lược, kế hoạch và trong từng nhiệm vụ cụ thể; trong đó, tập trung vào một số nội dung, nhiệm vụ chủ yếu sau:

Kết hợp chặt chẽ quốc phòng, an ninh và đối ngoại trong việc nắm, dự báo tình hình, nhất là các âm mưu, hành động xâm phạm độc lập, chủ quyền lãnh thổ của Tổ quốc; hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa và các hoạt động làm tổn hại đến lợi ích quốc gia - dân tộc.  Trên cơ sở đó, dự báo các nguy cơ, thách thức, những tình huống phức tạp có thể xảy ra, cùng xu hướng phát triển của nó để chủ động tham mưu cho Đảng, Nhà nước hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách và có đối sách xử lý đúng, kịp thời, hiệu quả các tình huống xảy ra, không để bị động, bất ngờ về chiến lược, góp phần bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa.

Hoạt động đối ngoại quốc phòng, phải quán triệt sâu sắc và vận dụng sáng tạo các mục tiêu, yêu cầu, phương châm, nguyên tắc của hoạt động đối ngoại mà Văn kiện Đại hội XII của Đảng đã xác định: “Bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng, cùng có lợi, thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”4

Cả lý luận và thực tiễn sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân ta đã cho thấy bài học sâu sắc về kiên định đường lối “độc lập, tự chủ, dựa vào sức mình là chính”. Trong đấu tranh bảo vệ chủ quyền lãnh thổ trên Biển Đông vừa qua càng khẳng định: chúng ta không thể trông chờ, dựa vào một quốc gia nào khác để bảo vệ độc lập, chủ quyền của đất nước. Vì thế, để bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc, chúng ta phải thấu suốt bài học kinh nghiệm này và đó cũng là quan điểm, đường lối cách mạng xuyên suốt, nhất quán của Đảng: độc lập, tự chủ, dựa vào sức mình là chính. Tất nhiên, trong tổ chức thực hiện phải kiên định nhưng không cứng nhắc, mà trái lại phải hết sức khôn khéo, linh hoạt, phát huy vai trò của đối ngoại để tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ từ bên ngoài thông qua hợp tác quốc tế. Mỗi cán bộ, đảng viên còn phải quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng về đối tượng, đối tác: những ai tôn trọng độc lập chủ quyền, quan hệ hữu nghị, hợp tác bình đẳng cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác của chúng ta; bất kể thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng đấu tranh. Đồng thời, thấy rõ sự chuyển hóa, trong đối tượng có đối tác, trong đối tác có đối tượng. Từ đó, vận dụng, xử lý đúng đắn, linh hoạt, sáng tạo, vừa hợp tác, vừa đấu tranh phù hợp với từng tình huống cụ thể.

Trong điều kiện mới, chúng ta còn phải kết hợp chặt chẽ đối ngoại quốc phòng với đối ngoại của Nhà nước để ngăn chặn và đẩy lùi mọi nguy cơ có thể gây ra chiến tranh, xung đột; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước. Tiếp tục đẩy mạnh đối ngoại quốc phòng đa phương, nhất là việc tham gia các diễn đàn quốc phòng, an ninh ở khu vực và quốc tế, như: Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN (ADMM), Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN mở rộng (ADMM+), Hội nghị Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF), v.v. Đồng thời, tăng cường đối ngoại quốc phòng song phương, đưa quan hệ hợp tác quốc phòng với các đối tác chiến lược, các nước bạn bè đi vào thực chất, phù hợp với lợi ích của đất nước, góp phần tăng cường sự hiểu biết và tin cậy lẫn nhau. Hoạt động đối ngoại quốc phòng còn phải mở rộng thương mại quốc phòng với các nước, cả bạn hàng truyền thống và bạn hàng mới, nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu hiện đại hóa vũ khí, trang bị kỹ thuật của Quân đội; quan tâm hợp tác quốc tế về công nghiệp quốc phòng; ưu tiên chuyển giao công nghệ trong các lĩnh vực: sản xuất, sửa chữa vũ khí, trang bị; đào tạo nhân lực, góp phần đẩy mạnh xây dựng Quân đội nhân dân “Cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”.

Kết hợp quốc phòng, an ninh và đối ngoại trong quản lý, bảo vệ an ninh biên giới là một trong những hoạt động thường xuyên, hết sức quan trọng; bởi lẽ, Việt Nam có đường biên giới đất liền dài 4.550 km, phía Bắc giáp Trung Quốc, phía Tây giáp Lào và Cam-pu-chia, phía đông và nam là biển. Vì vậy, các lực lượng Quân đội, Công an, Đối ngoại cần tập trung thực hiện tốt các hiệp định, quy chế quản lý biên giới; vừa đáp ứng yêu cầu hội nhập, phát triển kinh tế, vừa bảo đảm an ninh quốc gia, bảo vệ nền kinh tế của đất nước trước những tác động tiêu cực của quá trình toàn cầu hóa. Bộ đội Biên phòng là lực lượng nòng cốt, chuyên trách, phối hợp với lực lượng Công an nhân dân, bộ đội địa phương, dân quân tự vệ, cấp ủy, chính quyền địa phương và nhân dân trong quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội ở khu vực biên giới theo quy định của pháp luật. Cùng với đó, các hoạt động đối ngoại nhân dân, đối ngoại biên phòng của các địa phương trên tuyến biên giới cần tăng cường hoạt động bằng nhiều nội dung, hình thức, quy mô; tập trung vào phối hợp bảo vệ an ninh biên giới; phòng chống tội phạm xã hội, buôn lậu qua biên giới; đồng thời, đẩy mạnh các hoạt động giúp đỡ nhân dân Lào, Cam-pu-chia khu vực biên giới phát triển kinh tế, xây dựng cơ sở hạ tầng, rà phá bom mìn vật nổ, tuần tra chung, tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ, v.v. Qua đó, góp phần củng cố, tăng cường tình đoàn kết, hữu nghị, sự tin cậy giữa Nhà nước, quân đội và nhân dân giữa các nước, xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị, ổn định và phát triển.

Sự kết hợp giữa quốc phòng, an ninh và đối ngoại trong xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế phải đáp ứng yêu cầu kiến tạo môi trường quốc tế thuận lợi để phát triển đất nước. Trước tình hình các thế lực thù địch đang triệt để lợi dụng chính sách mở cửa, hội nhập quốc tế, thu hút đầu tư của nước ta để đẩy mạnh thực hiện chiến lược “Diễn biến hòa bình”, hoạt động đối ngoại cần phối hợp chặt chẽ với quốc phòng, an ninh, tăng cường kiểm tra, kiểm soát nắm chắc tình hình, tích cực đấu tranh với các âm mưu, hành động chống phá của chúng. Trong đó, cần coi trọng việc thẩm định các dự án kinh tế lớn, các dự án nằm ở khu vực, vị trí có ý nghĩa quan trọng về quốc phòng, an ninh; bảo đảm vừa thu hút đầu tư phục vụ phát triển kinh tế, vừa giữ vững an ninh chính trị, ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội.

Kết hợp chặt chẽ các lĩnh vực quốc phòng, an ninh và đối ngoại là quan điểm cơ bản của Đảng và cũng là yêu cầu  khách quan xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới. Thấu suốt và thực hiện tốt quan điểm này là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, các cấp, các ngành, các địa phương; trong đó, Quân đội, Công an và Đối ngoại giữ vai trò chủ đạo. Trong thời gian tới, sự kết hợp chặt chẽ giữa ba lực lượng cần phải chặt chẽ và toàn diện hơn, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của nhiệm vụ quốc phòng, an ninh và đối ngoại trong bối cảnh hội nhập, phát triển.

MẠNH DŨNG
___________

1 - ĐCSVN – Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H. 2006, tr. 111.

2 - ĐCSVN – Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 233.

3 - ĐCSVN – Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, H. 2016, tr. 149.

4 - Sđd, tr. 149. 

Ý kiến bạn đọc (0)

Đoàn kiểm tra của Ban Bí thư Trung ương Đảng làm việc với Ban cán sự Đảng bộ Tài chính
Sáng 27-9, Thượng tướng Ngô Xuân Lịch, Bí thư Trung ương Đảng, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, Trưởng đoàn kiểm tra của Ban Bí thư Trung ương Đảng làm việc với Ban cán sự Đảng Bộ Tài chính về kết quả thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI),...