Thứ Bảy, 23/11/2024, 15:35 (GMT+7)
Đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống Quán triệt, thực hiện nghị quyết
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011) xác định “phải đặc biệt chú trọng nắm vững và giải quyết tốt các mối quan hệ lớn”1, trong đó có quan hệ giữa kinh tế thị trường (KTTT) và định hướng XHCN. Đây vừa là kết quả tổng kết 25 năm đổi mới, vừa là phương hướng cơ bản cần thực hiện trong suốt thời kỳ quá độ lên CNXH. Giải quyết thành công mối quan hệ này sẽ là sự đóng góp to lớn của Đảng ta vào phát triển lý luận Mác – Lê-nin về con đường xây dựng CNXH.
Giải quyết mối quan hệ giữa KTTT và định hướng XHCN là một đột phá trong tư duy và tổ chức thực hiện xây dựng CNXH ở nước ta. Thực chất đó là quá trình đổi mới tư duy về CNXH và xây dựng thể chế kinh tế đảm bảo cho nền kinh tế vận hành theo các quy luật của thị trường, nhưng mục tiêu của CNXH cũng từng bước được hiện thực hóa. Vì thế, đây là một trọng tâm trong cuộc đấu tranh tư tưởng – lý luận để bảo vệ công cuộc đổi mới hiện nay.
Trước thời kỳ đổi mới, với quan niệm về CNXH theo mô hình “xô viết”, yếu tố thị trường không được chấp nhận với tư duy sai lầm rằng: KTTT đồng nhất với CNTB. Từ đó, thái độ kỳ thị với KTTT trở nên phổ biến trong xã hội. Tư duy đó đã phải trả giá đắt khi kinh tế – xã hội nước ta lâm vào khủng hoảng nghiêm trọng trong những năm đầu thập kỷ 80 của thế kỷ trước.
Sau những đổi mới cục bộ, từng phần (khoán trong nông nghiệp, 3 phần kế hoạch trong công nghiệp...), tại Đại hội VI, Đảng ta dứt khoát từ bỏ cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp để chuyển sang phát triển KTTT định hướng XHCN. Từ đó đến nay, bên cạnh những thành tựu không thể phủ nhận, cũng nảy sinh những phức tạp mới, nhất là sự tác động mặt trái của KTTT, làm không ít người băn khoăn về khả năng “dung hợp” giữa KTTT và định hướng XHCN. Lợi dụng tình hình này, các thế lực thù địch ra sức công kích, đòi Đảng ta phải từ bỏ “định hướng XHCN”, mà thực chất là xóa bỏ mục tiêu xây dựng CNXH. Chính vì thế, việc giải quyết mối quan hệ giữa KTTT và định hướng XHCN vẫn luôn là vấn đề thời sự trong công tác lý luận và hoạt động thực tiễn.
Nhìn lại 25 năm thực hiện công cuộc đổi mới có thể khẳng định rằng, đó cũng là 25 năm Đảng ta quan tâm giải quyết mối quan hệ giữa KTTT và định hướng XHCN, nhằm đảm bảo cho công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta luôn tiến lên phía trước. Theo đó, tư duy về con đường xây dựng CNXH ở nước ta đã thay đổi một cách căn bản, từ chỗ bài bác, đi đến thừa nhận sự tồn tại khách quan của các quan hệ thị trường trong công cuộc xây dựng CNXH. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (1991) của Đảng đã xác định: “Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước”2 là một trong bảy phương hướng cơ bản trong quá trình thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tại Đại hội VIII, Đảng ta khẳng định rõ: “Sản xuất hàng hóa không đối lập với CNXH, mà là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng CNXH và cả khi CNXH đã được xây dựng”3. Đến Đại hội IX, Đảng ta coi KTTT định hướng XHCN “là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên CNXH”4 và yêu cầu phải xây dựng thể chế KTTT định hướng XHCN. Trong những đại hội tiếp theo, việc hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN luôn được coi trọng và được Đại hội XI xem là một đột phá chiến lược để phát triển kinh tế nhanh, bền vững. Thừa nhận sự tồn tại khách quan của KTTT trong công cuộc xây dựng CNXH, Đảng ta cũng thấy rõ những khuyết tật của nó không phù hợp với bản chất của CNXH, nên luôn đề cao vai trò quản lý của Nhà nước XHCN, nhằm đảm bảo cho nền kinh tế vận hành theo các quy luật của thị trường, nhưng các mục tiêu của CNXH cũng phải từng bước được hiện thực hóa.
Trên cơ sở tư duy đổi mới nói trên, hệ thống luật pháp tạo khung khổ pháp lý cho nền KTTT định hướng XHCN đã được bổ sung, hoàn thiện. Các loại thị trường bước đầu được hình thành đồng bộ, gắn kết ngày càng tốt hơn với thị trường thế giới. Các loại hình doanh nghiệp dựa trên các hình thức sở hữu khác nhau (một điều kiện cơ bản để KTTT tồn tại) đều được khuyến khích phát triển5; trong đó, kinh tế nhà nước vẫn giữ vững vai trò chủ đạo. Quản lý nhà nước về kinh tế đã chuyển đổi căn bản sang phương thức quản lý chủ yếu bằng luật pháp, cơ chế, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và các nguồn lực kinh tế; nhằm giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, tạo lập và phát triển đầy đủ, đồng bộ các yếu tố của nền KTTT. Những thay đổi quan trọng này đã đảm bảo cho nền kinh tế nước ta hội đủ các điều kiện để trở thành thành viên thứ 150 của WTO và đến nay, đã có gần 30 nước công nhận nước ta có nền KTTT đầy đủ. Bên cạnh đó, Đảng và Nhà nước ta còn thực hiện nhiều chủ trương, chính sách để khắc phục các tác động mặt trái của cơ chế thị trường; mà nổi bật là thực hiện nhiều chương trình giảm nghèo cho các đối tượng, như chương trình 134, 135 và gần đây là chương trình giảm nghèo cho 62 huyện nghèo nhất nước. Phúc lợi xã hội và hệ thống an sinh xã hội cũng được chú trọng và từng bước được mở rộng. Tỷ trọng chi ngân sách nhà nước để thực hiện phúc lợi xã hội trong các lĩnh vực giáo dục, y tế, bảo hiểm xã hội,... từng bước được tăng lên. Công bằng giáo dục được giải quyết ngày càng tốt hơn. Nhà nước tăng đầu tư cho các cấp giáo dục phổ cập, cho phát triển giáo dục ở những vùng khó khăn. Chính sách hỗ trợ học sinh, sinh viên nghèo và diện chính sách được thực hiện rộng rãi (năm 2009 đã có 1,3 triệu học sinh, sinh viên được vay vốn tín dụng ưu đãi, trong đó 50% là sinh viên đại học và cao đẳng). Nhờ đó, đến hết năm 2010, cả nước đã hoàn thành phổ cập giáo dục trung học cơ sở, cơ bản xóa được tình trạng “xã trắng” về giáo dục mầm non. Đời sống tinh thần và mức hưởng thụ văn hóa – thông tin của nhân dân cũng ngày càng tốt hơn. Năm 2008, 100% số xã đã có điện thoại, đạt 95,5 thuê bao/100 dân. Năm 2010, số người sử dụng internet đã đạt 31% số dân, vượt mức bình quân của thế giới; số hộ gia đình nghe được Đài Tiếng nói Việt Nam và xem được Đài Truyền hình Việt Nam đã đạt 95,5%. Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân được chú trọng và đạt nhiều kết quả. Hiện nay, 60% số dân đã được bảo hiểm y tế; 100% trẻ em dưới 6 tuổi được khám, chữa bệnh miễn phí, v.v.
Nhờ thực hiện những chủ trương, chính sách đúng đắn đó, nước ta đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, bước vào nhóm nước đang phát triển có thu nhập trung bình, với tốc độ tăng trưởng GDP khá cao (7,26% trong giai đoạn 2001 - 2010) trong bối cảnh kinh tế thế giới lâm vào 2 cuộc khủng hoảng kinh tế tồi tệ. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt với mức thu nhập thực tế sau 10 năm (2001 - 2010) tăng 3,5 lần; công cuộc xóa đói, giảm nghèo đạt được những thành tựu ngoạn mục, với tỷ lệ hộ nghèo giảm mỗi năm 2-3%, đến năm 2010 chỉ còn khoảng 10%, được Liên hợp quốc xếp đứng đầu các nước thực hiện Mục tiêu Thiên niên kỷ. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường; dân chủ trong xã hội ngày càng tốt hơn; lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng ngày càng tăng lên. Chính trị - xã hội ổn định, quốc phòng - an ninh được giữ vững; nước ta được xem là một trong những nơi an toàn nhất thế giới, là điểm hấp dẫn đầu tư và du lịch của người nước ngoài. Vị thế (cả về kinh tế và chính trị) của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng tăng thêm; v.v. Những thành tựu nói trên đã chứng minh rõ: chủ trương phát triển KTTT định hướng XHCN không phải là sự từ bỏ học thuyết Mác – Lê-nin về xây dựng CNXH, mà ngược lại, đó là sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo học thuyết ấy trong điều kiện cụ thể của Việt Nam.
Tuy nhiên, việc giải quyết mối quan hệ giữa KTTT và định hướng XHCN những năm qua vẫn còn nhiều bất cập; thể hiện rõ nhất ở chỗ: hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách chưa thật đồng bộ và thống nhất; vấn đề sở hữu, quản lý và phân phối trong các doanh nghiệp nhà nước chưa được giải quyết tốt, còn có sự phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế (nhất là trong tiếp cận các nguồn tín dụng); tình trạng cạnh tranh không lành mạnh, trốn lậu thuế, gian lận thương mại còn nhiều; khoảng cách giàu – nghèo ngày càng doãng ra, hệ thống an sinh xã hội còn sơ khai và chưa đồng bộ, v.v. Những vấn đề đó đã góp phần làm cho “Kinh tế phát triển chưa bền vững, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế thấp; chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH,HĐH chậm; chế độ phân phối còn nhiều bất hợp lý, phân hóa xã hội tăng lên”6. Vì vậy, giải quyết mối quan hệ giữa KTTT và định hướng XHCN vẫn phải là mối quan tâm thường xuyên của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta, như Đại hội XI đã khẳng định.
Để tiếp tục giải quyết tốt mối quan hệ này, trước hết, phải nhận thức đúng thực chất mô hình KTTT định hướng XHCN ở nước ta là “một hình thái KTTT vừa tuân theo những quy luật của KTTT, vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của CNXH”7. Do vậy, trong quá trình vận hành nền kinh tế này, cơ chế thị trường phải được vận dụng đầy đủ để phát huy mạnh mẽ và có hiệu quả mọi nguồn lực; còn sự can thiệp của Nhà nước nhằm hiện thực hóa 8 đặc trưng của CNXH (do Đại hội XI xác định) cũng không thể tùy tiện, mà phải trên cơ sở tôn trọng các quy luật của thị trường. Trên cơ sở nhận thức đó, phải kiên trì thực hiện nhất quán chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần với vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Trong giai đoạn hiện nay, để kinh tế nhà nước làm tốt hơn vai trò chủ đạo, cần đẩy mạnh tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước mà trọng tâm là các tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước trên cơ sở tôn trọng, vận dụng đầy đủ, đúng đắn các quy luật, nguyên tắc của KTTT, xem nhu cầu thị trường là căn cứ chính để phân bổ các nguồn lực phát triển; kiên quyết chấm dứt tình trạng đầu tư dàn trải ra ngoài lĩnh vực sản xuất, kinh doanh chính; đồng thời, hoàn thiện thể chế quản lý doanh nghiệp nhà nước, đổi mới quản trị và cơ chế hoạt động cho phù hợp với quy định của Luật Doanh nghiệp, buộc các doanh nghiệp nhà nước cũng phải cạnh tranh bình đẳng trên thị trường như các doanh nghiệp thuộc loại hình sở hữu khác. Bên cạnh đó, phải thường xuyên quan tâm giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với đảm bảo tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và từng giai đoạn phát triển; bởi tiến bộ và công bằng xã hội vừa là điều kiện bảo đảm cho sự phát triển bền vững của nền kinh tế, vừa là một mục tiêu thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ XHCN mà chúng ta phải hiện thực hóa trong suốt thời kỳ quá độ. Muốn vậy, ở bất cứ giai đoạn nào, mỗi chính sách kinh tế cũng đều phải hướng tới mục tiêu phát triển xã hội và mỗi chính sách xã hội cũng phải nhằm tạo ra động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế; phải coi đầu tư cho xã hội (nhất là giáo dục, y tế) là đầu tư cho sự phát triển bền vững. Việc giải quyết vấn đề công bằng xã hội không chỉ nằm trong quá trình phân phối đầu ra của sản xuất – kinh doanh, mà còn phải đảm bảo ngay “trong phân phối các yếu tố sản xuất, tiếp cận và sử dụng các cơ hội, điều kiện phát triển”8; đó chính là việc tạo công bằng và bình đẳng về cơ hội để mọi người dân tự chăm lo cuộc sống cho mình và đóng góp cho xã hội, tiến tới mọi người đều khá giả. Theo đó, Đảng và Nhà nước cần tiếp tục thực hiện nhiều chủ trương, chính sách nhằm tạo môi trường và điều kiện để mọi người lao động có việc làm và thu nhập tốt hơn, khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với giảm nghèo bền vững, có chính sách điều tiết hợp lý thu nhập trong xã hội; thực hiện chế độ “Phân phối kết quả làm ra chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội”9. Trong thời gian tới, cần đặc biệt hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội để giúp đỡ những nhóm người yếu thế, nhằm rút ngắn khoảng cách phân hóa giàu, nghèo trong xã hội.
Giải quyết tốt mối quan hệ giữa Nhà nước với thị trường cũng là một nội dung quan trọng đảm bảo cho nền kinh tế vận hành theo các quy luật của KTTT, nhưng các mục tiêu của CNXH không bị lãng quên. Theo đó, cần đặc biệt quan tâm nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý kinh tế của Nhà nước. Nhà nước vừa không phó mặc cho thị trường điều tiết, vừa không tùy tiện can thiệp làm sai lệch các quan hệ thị trường khi thực hiện quyết tâm chính trị: hiện thực hóa các mục tiêu của CNXH. Nhà nước phải quản lý nền kinh tế chủ yếu bằng pháp luật, quy hoạch, kế hoạch và các công cụ điều tiết khác, “trên cơ sở tôn trọng và vận dụng đầy đủ, đúng đắn các quy luật và cơ chế vận hành của KTTT”10. Muốn vậy, Nhà nước cần tiếp tục đổi mới công tác quy hoạch, kế hoạch, dự báo kinh tế; kiên quyết giảm tối đa sự can thiệp hành chính vào thị trường; đặc biệt coi trọng việc nâng cao năng lực điều hành các chính sách tài chính, tiền tệ, nhằm bảo đảm sự ổn định và phát triển bền vững của nền tài chính quốc gia; hướng mạnh quản lý nhà nước vào bảo đảm tính bền vững của các cân đối vĩ mô, hạn chế các rủi ro và tác động tiêu cực của cơ chế thị trường. Mặt khác, chúng ta phải luôn chăm lo xây dựng bản chất giai cấp của Nhà nước, bảo đảm Nhà nước ta thực sự là Nhà nước pháp quyền XHCN “của dân, do dân, vì dân” dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Nhà nước đó vừa phải đảm bảo cho dân chủ trong xã hội được phát huy ở mọi cấp độ, vừa phải bảo đảm cho trật tự, kỷ cương, pháp luật được tăng cường. Điều đó đòi hỏi chúng ta vừa phải tiếp tục đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng một cách kiên quyết và hiệu quả hơn, nhằm xây dựng đội ngũ công chức thực sự là “công bộc” của dân như Bác Hồ căn dặn; vừa phải hết sức coi trọng giữ vững định hướng XHCN trong quá trình hoàn thiện hệ thống luật pháp, nhất là trong tiến trình sửa đổi Hiến pháp 1992 đang diễn ra. Đồng thời, phải đặc biệt coi trọng nhiệm vụ xây dựng Đảng ta thực sự vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, để Đảng ta làm tốt vai trò người cầm lái con thuyền KTTT định hướng XHCN cập bến vinh quang.
Giải quyết mối quan hệ giữa KTTT và định hướng XHCN là trách nhiệm của mọi cấp, mọi ngành, của mỗi người dân; diễn ra trong suốt thời kỳ quá độ lên CNXH. Nhiệm vụ đó đòi hỏi phải thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ, phù hợp, trên cơ sở nhận thức rõ tính phổ biến và tính đặc thù của nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta. Giải quyết thành công mối quan hệ này sẽ là một đóng góp quan trọng của Đảng ta vào sự phát triển chủ nghĩa Mác – Lê-nin trong thời đại hiện nay.
NGUYỄN NGỌC HỒI
____________
1 - ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 72.
2 - ĐCSVN - Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, Nxb ST, H. 1991, tr. 9-10.
3 - ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb CTQG, H. 1996, tr. 97.
4 - ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H. 2001, tr. 88.
5 - Khu vực kinh tế tư nhân, tập thể và các hộ gia đình đã tạo ra 45% GDP vào năm 2010.
6, 7 - ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 313, 205.
8, 9, 10 - ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 206, 214-215.
Học viện Quốc phòng quán triệt, vận dụng Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XIII) vào công tác huấn luyện - đào tạo, nghiên cứu khoa học 14/11/2024
Quân khu 4 lãnh đạo xây dựng khu vực phòng thủ theo Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XIII) 04/11/2024
Tư duy của Đảng về phát triển công nghiệp quốc phòng, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới (Tiếp theo và hết) 28/10/2024
Quân đoàn 3 trước yêu cầu xây dựng tinh, gọn, mạnh, tiến lên hiện đại 17/10/2024
Quân khu 3 nâng cao chất lượng công tác hậu cần theo Nghị quyết số 1658-NQ/QUTW 07/10/2024
Tư duy của Đảng về phát triển công nghiệp quốc phòng, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới 26/09/2024
Quân khu 5 xây dựng lực lượng vũ trang vững mạnh theo Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XIII) 12/09/2024
Bộ Tư lệnh Bảo vệ Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh quán triệt, thực hiện chuẩn mực đạo đức của cán bộ, đảng viên 05/09/2024
Tư duy của Đảng về phát triển công nghiệp quốc phòng, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới 26/08/2024
Vận dụng phương châm “dĩ bất biến, ứng vạn biến” trong sự nghiệp quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc* 22/08/2024
Tư duy của Đảng về phát triển công nghiệp quốc phòng, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới (Tiếp theo và hết)
Quân khu 4 lãnh đạo xây dựng khu vực phòng thủ theo Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XIII)
Học viện Quốc phòng quán triệt, vận dụng Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XIII) vào công tác huấn luyện - đào tạo, nghiên cứu khoa học