Thứ Hai, 25/11/2024, 21:14 (GMT+7)
Đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống Quán triệt, thực hiện nghị quyết
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011) đã chỉ ra mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ là xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của CNXH. Để thực hiện thành công mục tiêu trên, chúng ta phải quán triệt và thực hiện tốt các phương hướng cơ bản; đặc biệt, phải chú trọng nắm vững và giải quyết tốt 8 mối quan hệ lớn mà Đại hội chỉ ra; trong đó có mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị .
Sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà, trong điều kiện đất nước bị các thế lực thù địch bao vây cấm vận, vẫn còn tiếng súng ở biên giới phía Tây Nam và biên giới phía Bắc, nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã nỗ lực phấn đấu, đạt được thành tựu bước đầu của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, trong lãnh đạo, quản lý, chúng ta đã kéo dài quá lâu cơ chế tập trung, bao cấp, làm suy yếu động lực phát triển. Nền kinh tế của đất nước gặp vô vàn khó khăn, sản xuất trì trệ, hàng hoá thiếu thốn, giá cả tăng vọt, lạm phát đến 3 chữ số; đời sống xã hội vô cùng bức xúc,… lòng tin của nhân dân đối với chế độ XHCN giảm sút. Thực tiễn cho thấy, mô hình kinh tế và cách quản lý cũ đã bộc lộ những hạn chế; vì vậy, một số xí nghiệp quốc doanh, hợp tác xã,… và một số địa phương đã có những cải tiến “vượt rào”, “bung sản xuất ra”, tháo gỡ bế tắc trong phân phối - lưu thông… nhằm thúc đẩy kinh tế phát triển. Trong điều kiện đó, Đảng ta đã từng bước bám sát thực tiễn đời sống xã hội, tỏ thái độ ủng hộ và nâng đỡ những “mầm non” sáng kiến đó. Nghị quyết Trung ương 6, khoá IV (1979) của Đảng đã nhấn mạnh đến quan hệ hàng hoá - tiền tệ, đến lợi ích kinh tế, đến thống nhất 3 lợi ích (lợi ích nhà nước, lợi ích tập thể, lợi ích cá nhân người lao động) làm động lực để phát triển kinh tế, góp phần tháo gỡ khó khăn cho sản xuất và từng bước cải thiện đời sống nhân dân. Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa IV ra Chỉ thị 100 về khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm và người lao động trong các hợp tác xã sản xuất nông nghiệp; Chính phủ ra Nghị quyết 25/CP, Nghị quyết 26/CP về 3 phần kế hoạch và quyền tự chủ kinh doanh của các xí nghiệp quốc doanh. Như thế, lịch sử và thực tiễn đã chỉ ra rằng: đổi mới ở nước ta là từ đổi mới từng phần, từ đổi mới kinh tế, từ phong trào nhân dân kết hợp với sự lãnh đạo của Đảng, từ dưới lên trên và từ trên xuống dưới. Bản thân đổi mới xuất hiện như một giải đáp chính trị nhằm ổn định xã hội, tìm tòi, sáng tạo giải pháp thực hiện con đường đi lên CNXH; tìm tòi mô hình CNXH thực tế và hiệu quả.
Đại hội VI của Đảng (12-1986) là một bước ngoặt có tính nhảy vọt cách mạng: quyết định đường lối đổi mới toàn diện đất nước. Khác với đường lối cải tổ và cách thực thi cải tổ ở Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu, đường lối đổi mới của chúng ta không phải là “nã đại bác vào quá khứ”, xoá bỏ CNXH; trái lại, nó mang tính kế thừa có chọn lọc, đổi mới để có CNXH thực tế, CNXH đầy đủ, CNXH khoa học. Vì thế, công cuộc đổi mới ở nước ta đã không dẫn đến chia rẽ xã hội, mà đoàn kết, khôi phục niềm tin, động viên toàn thể dân tộc, tạo động lực to lớn thúc đẩy đất nước phát triển. Công cuộc đổi mới toàn diện đất nước dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam mang bản chất chính trị - xã hội sâu sắc, là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn để tìm kiếm mô hình phát triển đất nước hợp lý theo định hướng XHCN.
Công cuộc đổi mới của Việt Nam đã diễn ra trên khắp các lĩnh vực của đời sống xã hội: kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng - an ninh… và cả phương thức tổ chức, hoạt động lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. Tuy nhiên, bước đi của đổi mới là vấn đề vô cùng nhạy cảm và hệ trọng. Quan điểm của Đảng ta là đổi mới toàn diện, nhưng đặt trọng tâm vào đâu, lĩnh vực nào đi trước, lĩnh vực nào đi sau,… để đảm bảo cho đổi mới phát triển đúng hướng, giành thắng lợi, đòi hỏi ý thức sâu sắc và nghệ thuật lãnh đạo đúng đắn của Đảng. Thực tế ở Liên Xô cho thấy, ngay trong bước đầu của cải tổ, Đảng Cộng sản Liên Xô đã đi vào cải tổ chính trị, nêu ra dân chủ hoá, công khai hoá; hơn nữa, lại để phong trào phát triển vô chính phủ, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, tách Đảng khỏi Nhà nước, tách Nhà nước ra khỏi Đảng, nêu khẩu hiệu Đảng hoá thân vào Nhà nước, thực chất là vô hiệu hoá Đảng, nên đã dẫn đến tan vỡ Đảng, sụp đổ chế độ XHCN, Liên bang Xô Viết tan rã.
Đứng vững trên lập trường, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, Đảng ta đã cân nhắc cẩn trọng, nhận thức và giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Kinh tế và chính trị có mối quan hệ biện chứng; kinh tế là cơ sở của đời sống xã hội, hạ tầng cơ sở quyết định thượng tầng kiến trúc; chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế, những thay đổi chính trị sẽ làm cho xã hội diễn biến “1 ngày bằng 20 năm”. Vì vậy, ngay từ khi đề ra đường lối đổi mới cũng như trong hoạt động thực tiễn, đất nước ta vừa có đổi mới kinh tế, vừa có đổi mới chính trị. Ngay từ đầu, trên đất nước ta, cùng với không khí sôi động của đổi mới kinh tế thì không khí dân chủ trong sinh hoạt xã hội, đặc biệt trong thông tin, báo chí lại càng sôi động hơn. Tất nhiên, trong đường lối đổi mới, Đảng ta đã khẳng định rõ chủ trương: trước hết đổi mới trên lĩnh vực kinh tế.
Đổi mới kinh tế trước hết tập trung vào xoá bỏ cơ chế tập trung, bao cấp, giải phóng sản xuất, tháo gỡ phân phối - lưu thông, cải thiện đời sống xã hội. Nhờ vậy, đổi mới kinh tế đã làm náo nức lòng người, làm sinh động sự lãnh đạo của Đảng và sinh hoạt xã hội. Chúng ta đã xoá bỏ ngăn sông, cấm chợ; xoá bỏ chế độ phân phối theo tem phiếu, theo định lượng mang nặng tính bình quân, thay bằng sử dụng quan hệ hàng hoá - tiền tệ, quan hệ thị trường; đã xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần thay cho nền kinh tế chỉ có quốc doanh và tập thể; đề cao ý thức và năng lực tự chủ sản xuất, kinh doanh của các xí nghiệp quốc doanh. Cùng với nhiều biện pháp kinh tế chống lạm phát, chỉ trong thời gian ngắn hàng hoá đã phong phú, dồi dào, giá cả tương đối ổn định, đời sống nhân dân, trong đó có cán bộ, công nhân, viên chức được cải thiện. Đặc biệt, Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị khóa IV quyết định khoán cho hộ nông dân trong các hợp tác xã sản xuất nông nghiệp (năm 1988) đã làm thay đổi căn bản không khí nông thôn, phát huy cao độ tính tích cực của nông dân; chỉ sau hai năm nước ta đã có lương thực vừa đủ ăn, vừa có gạo để xuất khẩu. Những kết quả của đổi mới kinh tế đã cải thiện rõ rệt đời sống xã hội, khôi phục lòng tin trong nhân dân, góp phần làm cho tình hình chính trị - xã hội ổn định; qua đó, củng cố kết quả đổi mới kinh tế, cổ vũ đổi mới kinh tế, càng cho thấy vừa đổi mới kinh tế vừa đổi mới chính trị, nhưng trong bước đi đặt trọng tâm trước hết vào đổi mới kinh tế là hoàn toàn đúng đắn. Chính thực trạng đổi mới kinh tế, triển khai sâu rộng đổi mới kinh tế lại càng đặt ra yêu cầu đổi mới chính trị và làm sáng tỏ dần cả nội dung đổi mới chính trị. Chính nền kinh tế nhiều thành phần, với sự tác động qua lại quan hệ hàng hoá - tiền tệ và những diễn biến sinh động, phức tạp của thị trường đã đặt ra nhiều vấn đề đổi mới hoạt động lãnh đạo của Đảng, hoạt động quản lý của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.
Đổi mới kinh tế, một mặt, tạo nên những động lực mạnh mẽ thúc đẩy xã hội, đất nước phát triển; mặt khác, làm nảy sinh những mâu thuẫn nội bộ nhân dân mà ở các thời kỳ trước không có. Cơ chế thị trường, bên cạnh những mặt tích cực, cũng phát sinh những mặt khác, như: những nhóm lợi ích khác nhau, những va chạm, xung đột nhau... Trước kia tình trạng “cha chung không ai khóc” rất phổ biến; nay, do coi trọng lợi ích kinh tế, khuyến khích làm giàu (hợp pháp), nên coi trọng “tấc đất tấc vàng”, đi đến tranh chấp đất đai quyết liệt, cả ở nông thôn và thành thị, thậm chí trong từng gia đình, trong từng phố phường, thôn xóm. Cơ chế thị trường có tác dụng tích cực thúc đẩy kinh tế phát triển, nhưng tất yếu có cạnh tranh, có phân hoá giàu - nghèo, khoảng cách chênh lệch về thu nhập ngày càng doãng ra giữa các tầng lớp xã hội, cho nên cũng phát sinh mâu thuẫn nội bộ nhân dân. Như thế, lãnh đạo chính trị đối với đổi mới kinh tế trở nên bức thiết, đổi mới hệ thống chính trị để vận động nhân dân có hiệu quả trở nên quan trọng. Ngay từ những năm đầu của thời kỳ đổi mới, Đảng ta đã nhấn mạnh: tiếp tục đổi mới để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (1991), Nghị quyết Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ, khoá VII và Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng đều nhấn mạnh phải phòng ngừa nguy cơ chệch hướng, phải xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Đó là những quyết sách chính trị vô cùng đúng đắn làm cơ sở để tiến hành đổi mới kinh tế ngày càng sâu rộng và vững chắc. Chính trên cơ sở vững vàng định hướng XHCN và độc lập, tự chủ, đất nước ta đã chủ động phát triển, từ hội nhập kinh tế quốc tế, lên hội nhập quốc tế.
Chúng ta đổi mới chính trị nhưng không thực hiện đa nguyên, đa đảng; không làm thay đổi bản chất Nhà nước, thay đổi hệ tư tưởng, thay đổi chế độ XHCN và bản chất của Quân đội ta. Trong điều kiện lịch sử cụ thể của đất nước, chúng ta không có nhu cầu đa đảng, không có nhu cầu đảng đối lập. Đảng Cộng sản Việt Nam là chính đảng duy nhất, giữ vai trò lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Qua Điều 4 của Hiến pháp 1992, nhân dân ta thực hiện chế độ nhất nguyên chính trị. Khác các nước tư bản, nước ta có Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, bao gồm các giai cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn giáo, cá nhân tiêu biểu, đồng bào trong nước và đồng bào định cư ở nước ngoài,… là cơ sở chính trị của Nhà nước ta, thực hiện chức năng phản biện xã hội đối với đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước, tích cực tham gia xây dựng Đảng và xây dựng Nhà nước. Nhân dân ta xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, nhà nước của dân, do dân, vì dân, dưới lãnh đạo của Đảng. Chủ nghĩa Mác - Lên-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hoạt động cách mạng của nhân dân ta, được nhận thức đúng đắn và vận dụng sáng tạo vào điều kiện lịch sử cụ thể của nước ta. Chế độ chính trị của nước ta là chế độ XHCN, chế độ đó đang trải qua một thời kỳ quá độ lịch sử lâu dài, từ nay đến lúc xây dựng xong CNXH thì mọi hoạt động trong các lĩnh vực của đời sống xã hội đều theo định hướng XHCN.
Đổi mới chính trị là vấn đề vô cùng nhạy cảm, liên quan đến sự tồn vong của chế độ và của công cuộc đổi mới. Chúng ta quan niệm đổi mới chính trị với một nội dung xác định là: đổi mới tổ chức, nội dung và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, mà thực chất là xây dựng và phát triển nền dân chủ XHCN. Đây là nền dân chủ của đa số, có tổ chức, có lãnh đạo, chứ không phải là dân chủ vô chính phủ. Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là thành viên của hệ thống chính trị, vừa là người lãnh đạo hệ thống chính trị. Đổi mới chính trị, trước hết Đảng phải chủ động tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của mình. Trong thực tiễn, Đảng đã tiến hành Cuộc vận động chỉnh đốn Đảng, giải quyết những vấn đề vừa cơ bản, vừa cấp bách về xây dựng Đảng như Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2), khoá VIII của Đảng đã phát động. Theo đó, Đảng đã triệt để thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ; tích cực “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”; đẩy mạnh tự phê bình và phê bình; xử lý kỷ luật nghiêm minh đối với mọi tổ chức đảng và đảng viên vi phạm Điều lệ Đảng, suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức… Toàn Đảng, trước hết là các cấp uỷ Đảng đã có những đổi mới quan trọng về phương thức lãnh đạo đối với Nhà nước, theo tinh thần dân chủ, không bao biện làm thay, thực hiện đúng Hiến pháp và pháp luật, đảm bảo mọi quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân. Đổi mới phương thức lãnh đạo chứ không phải là đổi mới vai trò lãnh đạo của Đảng. Đảng vẫn lãnh đạo toàn diện đối với Nhà nước và xã hội; Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với lực lượng vũ trang. Tuy nhiên, Đảng ta nhận thấy rằng, Cuộc vận động đổi mới, chỉnh đốn Đảng vẫn chưa đáp ứng kịp những đổi mới về kinh tế; chẳng hạn, còn chậm trong việc xây dựng tổ chức đảng và thực hiện chức năng lãnh đạo của Đảng trong các doanh nghiệp tư nhân…
Đối với Nhà nước, cả cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp, trong thời gian qua cũng đã có nhiều đổi mới về tổ chức và phương thức hoạt động phù hợp với điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN. Quốc hội đã phát huy sinh hoạt dân chủ, thực thi chức năng giám sát các cơ quan nhà nước và công chức, tăng cường chức năng xây dựng luật, tăng cường tiếp xúc cử tri. Chính phủ đã có sự phân biệt quan trọng giữa tổ chức kinh doanh với các cơ quan thực hiện chức năng quản lý nhà nước, đã tăng cường tiếp xúc công dân, đẩy mạnh giải quyết các khiếu nại, tố cáo của công dân, những thủ tục hành chính đã giảm bớt phiền hà cho nhân dân, ra sức chống quan liêu, tham nhũng. Các cơ quan xét xử đã thực hiện việc tranh tụng trong phiên toà… Tuy nhiên, những đổi mới đó vẫn chưa đáp ứng với mong mỏi chính đáng của nhân dân; đặc biệt, cuộc chiến chống quan liêu, tham nhũng, làm trong sạch bộ máy nhà nước hiệu quả còn thấp…
Đại hội XI của Đảng đã quyết định: đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, thì vấn đề cốt lõi là giải quyết tốt mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị vừa là cơ sở của nhau, vừa là điều kiện để triển khai sâu rộng và vững chắc công cuộc đổi mới trên các lĩnh vực văn hoá, giáo dục, y tế, đối ngoại, quốc phòng - an ninh… Đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị phải dựa vào ba trụ cột: định hướng XHCN, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, nhận thức và vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện nước ta hiện nay. Ba trụ cột này là điều kiện, là cơ sở bảo đảm cho đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị hài hoà, đúng đắn, có hiệu quả.
VŨ HỮU NGOẠN
Nguyên Phó Viện trưởng Viện nghiên cứu
Chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh
Học viện Quốc phòng quán triệt, vận dụng Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XIII) vào công tác huấn luyện - đào tạo, nghiên cứu khoa học 14/11/2024
Quân khu 4 lãnh đạo xây dựng khu vực phòng thủ theo Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XIII) 04/11/2024
Tư duy của Đảng về phát triển công nghiệp quốc phòng, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới (Tiếp theo và hết) 28/10/2024
Quân đoàn 3 trước yêu cầu xây dựng tinh, gọn, mạnh, tiến lên hiện đại 17/10/2024
Quân khu 3 nâng cao chất lượng công tác hậu cần theo Nghị quyết số 1658-NQ/QUTW 07/10/2024
Tư duy của Đảng về phát triển công nghiệp quốc phòng, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới 26/09/2024
Quân khu 5 xây dựng lực lượng vũ trang vững mạnh theo Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XIII) 12/09/2024
Bộ Tư lệnh Bảo vệ Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh quán triệt, thực hiện chuẩn mực đạo đức của cán bộ, đảng viên 05/09/2024
Tư duy của Đảng về phát triển công nghiệp quốc phòng, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới 26/08/2024
Vận dụng phương châm “dĩ bất biến, ứng vạn biến” trong sự nghiệp quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc* 22/08/2024
Quân khu 4 lãnh đạo xây dựng khu vực phòng thủ theo Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XIII)
Tư duy của Đảng về phát triển công nghiệp quốc phòng, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới (Tiếp theo và hết)
Học viện Quốc phòng quán triệt, vận dụng Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XIII) vào công tác huấn luyện - đào tạo, nghiên cứu khoa học