Thứ Hai, 25/11/2024, 05:18 (GMT+7)
Đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống Quán triệt, thực hiện nghị quyết
Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ chiến lược luôn song hành với nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhìn lại 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”, chúng ta có thể thấy rõ bước phát triển đột phá về nhận thức, tư duy lý luận và chỉ đạo thực tiễn của Đảng.
Đột phá về nhận thức và thực tiễn trong thực hiện Chiến lược bảo vệ Tổ quốc
Về nhận thức
Trước hết, nhận thức về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc của Đảng có sự đổi mới và ngày càng hoàn thiện. Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) xác định: bảo vệ Tổ quốc là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, bảo vệ sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc, bảo vệ nền văn hóa, giữ vững ổn định chính trị và môi trường hòa bình để xây dựng và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đại hội XII của Đảng đã phát triển nhận thức, coi nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc còn là: “Chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, ngăn chặn, phản bác những thông tin và luận điệu sai trái, đẩy lùi các loại tội phạm và tệ nạn xã hội, sẵn sàng ứng phó với các mối đe dọa an ninh truyền thống và phi truyền thống; bảo đảm an ninh, an toàn thông tin, an ninh mạng, v.v. Có kế sách ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; chủ động phòng ngừa, phát hiện sớm và triệt tiêu các nhân tố bất lợi, nhất là các nhân tố bên trong có thể gây ra đột biến”1. Đến Đại hội XIII, Đảng ta xác định đầy đủ và sâu sắc hơn về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc: “Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa, nền văn hóa và lợi ích quốc gia - dân tộc;... Ứng phó kịp thời, hiệu quả với các đe dọa an ninh phi truyền thống, nhất là nhiệm vụ cứu nạn, cứu hộ, phòng, chống thiên tai, dịch bệnh”2.
Tiếp đến, phát triển nhận thức về tăng cường sức mạnh để bảo vệ Tổ quốc. Đó là sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, sức mạnh tổng hợp của đất nước về chính trị, tư tưởng, kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại; sức mạnh của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước, trong đó lực lượng vũ trang là nòng cốt; sức mạnh của sự kết hợp và tận dụng nguồn lực trong nước với quốc tế. Để tăng cường sức mạnh cho lực lượng vũ trang thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, Đảng ta chủ trương: “Đến năm 2025, cơ bản xây dựng Quân đội, Công an tinh, gọn, mạnh, tạo tiền đề vững chắc, phấn đấu năm 2030 xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ”3.
Cùng với đó, xác định ngày càng rõ hơn các nhiệm vụ cụ thể để bảo vệ Tổ quốc của toàn Đảng, toàn dân, tất cả các ngành, các lĩnh vực, lực lượng vũ trang và các địa phương, đơn vị. Đảng ta đã nhận thức đầy đủ, rõ ràng, cụ thể hơn về nội dung, phương thức thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, coi đó là những hoạt động thường xuyên. Đồng thời chỉ rõ, phải xây dựng lực lượng lớn mạnh, sẵn sàng đấu tranh với các thế lực thù địch trong mọi tình huống: xâm phạm chủ quyền lãnh thổ, biển đảo, biên giới, gây rối, biểu tình, bạo loạn chính trị, bạo loạn vũ trang, lật đổ, ly khai; đấu tranh thường xuyên chống các tư tưởng, hành động sai trái với đường lối, quan điểm của Đảng; phòng, chống “diễn biến hòa bình” và những luận điệu chống phá của các thế lực thù địch.
Nhận thức về đối tác, đối tượng là tư duy mới có tính đột phá. Đảng ta có cách nhìn biện chứng hơn, chuyển từ tư duy bạn, thù sang tư duy đối tác, đối tượng trên cơ sở lợi ích quốc gia, dân tộc; thấy rõ sự đan xen, chuyển hóa giữa đối tượng, đối tác, xác định lấy đối tác làm cơ sở để thiết lập quan hệ quốc tế rộng rãi; đồng thời, đấu tranh với đối tượng, từng mặt của đối tượng, cũng như với mặt nào đó của đối tác. Đảng ta chỉ rõ: để phát huy thuận lợi, hạn chế thách thức, cần có cách nhìn mới và thống nhất về đối tác, đối tượng. Những ai chủ trương tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác của chúng ta. Bất kể thế lực thù địch nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng đấu tranh của chúng ta.
Về thực tiễn
Thực chất của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hiện nay là bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bảo vệ chế độ xã hội đang trong quá trình xây dựng và hoàn thiện, đã đạt được những cơ sở, những nền tảng tương đối vững chắc, nhưng vẫn còn nhiều mặt hạn chế không dễ giải quyết và khắc phục một sớm một chiều. Thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong những năm qua, chúng ta đã đạt được những thành tựu nổi bật:
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự chỉ đạo, quản lý và tổ chức thực hiện của Nhà nước, toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta đã vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa; củng cố, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hệ thống chính trị; giữ vững an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội; làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, giữ vững hòa bình ổn định và phát triển. Sức mạnh tổng hợp của đất nước đã tăng lên, tiềm lực quốc phòng, an ninh được tăng cường; thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân ngày càng được củng cố vững chắc; tạo lập được môi trường quốc tế thuận lợi, quan hệ đối ngoại được tăng cường, hội nhập quốc tế ngày càng được mở rộng và đi vào chiều sâu; lạm phát được kìm chế, quy mô nền kinh tế tăng lên; an sinh xã hội, phúc lợi xã hội được quan tâm, đời sống nhân dân cơ bản ổn định.
Công tác tư tưởng, lý luận được chú trọng, tăng cường việc tổng kết thực tiễn, góp phần tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc do thực tiễn đặt ra; kiên quyết đấu tranh chống quan điểm sai trái, thù địch; giữ vững trận địa tư tưởng, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc; bảo vệ Tổ quốc, nhân dân, bảo vệ Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa.
Sức mạnh tổng hợp, khả năng chiến đấu của lực lượng vũ trang được nâng cao, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Lực lượng vũ trang đã nâng cao tinh thần chiến đấu và khả năng sẵn sàng chiến đấu; các quân chủng, binh chủng trong Quân đội và các lực lượng trọng yếu của Công an đã được củng cố, tăng cường; các vũ khí, khí tài được nâng cấp và trang bị tốt hơn; một số quân chủng, binh chủng của Quân đội và một số lực lượng tinh nhuệ của Công an đã phát triển theo hướng chính quy, tinh nhuệ và tiến thẳng lên hiện đại. Đời sống vật chất, tinh thần của cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang được quan tâm và cải thiện đáng kể. Quân đội nhân dân và Công an nhân dân tiếp tục giữ vững và phát huy phẩm chất cao đẹp của đội quân cách mạng, đoàn kết nhất trí cao trong nội bộ, gắn bó máu thịt với nhân dân, có lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, tinh thần quốc tế cao cả, khắc phục mọi khó khăn, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ.
Những vấn đề đặt ra và một số định hướng, giải pháp bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới
Trong 10 năm qua, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn trên nhiều lĩnh vực, tình hình chung cơ bản ổn định nhưng vẫn tiềm ẩn nhiều nhân tố bất ổn. Tranh chấp chủ quyền biển, đảo, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống diễn biến phức tạp. Trong khi đó, tình hình thế giới, khu vực đang có những biến động hết sức phức tạp, nhanh chóng, khó lường; tình hình Biển Đông có những khó khăn, thách thức mới, tiềm ẩn nguy cơ mất ổn định. Thực tiễn đó cũng cho chúng ta thấy rõ mấy vấn đề: (1) Nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc đã được Cương lĩnh và các văn kiện, nghị quyết của Đảng nêu hết sức rõ ràng, chuẩn xác, nhưng khó khăn nhất trong thực hiện lại là giải quyết, xử lý các tình huống diễn ra trên thực tế. (2) Nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc được triển khai như thế nào trong khi phải thực hiện thật tốt nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội. (3) Việc đối phó với chiến tranh sử dụng vũ khí công nghệ cao đang trở thành vấn đề nổi cộm. (4) Vấn đề bảo vệ chủ quyền biển, đảo có vị trí đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp xây dựng, phát triển và bảo vệ Tổ quốc, v.v.
Xuất phát từ tình hình trên đặt ra đối với việc triển khai và tiếp tục hoàn thiện định hướng, cũng như đề xuất một số giải pháp bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới như sau:
Một là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, kiên quyết, kiên trì thực hiện đường lối, quan điểm, tư duy mới của Đảng về bảo vệ Tổ quốc, lấy đó làm kim chỉ nam cho việc hoàn thiện định hướng bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Đây là vấn đề quan trọng bậc nhất, có ý nghĩa quyết định đến thành bại của việc thực thi định hướng bảo vệ Tổ quốc. Trong quá trình thực hiện Chiến lược bảo vệ Tổ quốc, trên cơ sở đánh giá đúng tình hình thế giới, khu vực và trong nước, với tầm nhìn chiến lược và tư duy khoa học, nhạy bén, Đảng ta đã đề ra đường lối xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với điều kiện thực tế của đất nước. Nhờ đó, tạo ra sức mạnh tổng hợp to lớn trên cơ sở phát huy cao độ sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, kết hợp sức mạnh trong nước với quốc tế, phát huy nội lực với tranh thủ ngoại lực, chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững môi trường hòa bình, bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội để xây dựng và phát triển đất nước. Những nhiệm vụ quốc phòng, an ninh đã được hoàn thành tốt đều bắt nguồn từ đó; những nhiệm vụ nào thực hiện chưa thật tốt đều xuất phát từ nguyên nhân chưa nắm chắc, quán triệt thấu đáo và chưa tổ chức thực hiện nghiêm túc những định hướng bảo vệ Tổ quốc của Đảng đã đề ra.
Hai là, bổ sung một số khía cạnh về phương châm bảo vệ Tổ quốc. Phương châm chỉ đạo việc thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc là vấn đề rất quan trọng, là cơ sở để xác định đúng mục tiêu, phương thức, cách thức để bảo vệ sự bất khả xâm phạm của quốc gia, bảo vệ lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Những nội dung trọng yếu cần được bổ sung thêm là: nắm chắc tình hình và giải quyết đồng bộ các vấn đề do thực tiễn đặt ra; nghiên cứu dự báo đúng tình hình thế giới, khu vực, trong nước và từng địa bàn cụ thể; nhận rõ các thách thức quốc phòng, an ninh, các tình huống có thể xảy ra; đưa ra các định hướng hành động chính xác, kịp thời, linh hoạt để đối phó có hiệu quả với mọi tình huống, không để bất ngờ, bị động, nhất là bất ngờ, bị động về chiến lược. Mục tiêu tối ưu của việc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc chính là ngăn ngừa, đẩy lùi và đập tan các nguy cơ xung đột, bất ổn, sẵn sàng ứng phó và ứng phó thành công trong mọi tình huống.
Ba là, cùng với bảo đảm ổn định chính trị, đẩy mạnh phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, tăng cường quốc phòng, an ninh, đối ngoại, cần tăng cường công tác tư tưởng trong toàn Đảng và trong xã hội. Thường xuyên làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức cho toàn Đảng, toàn dân về đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, về nhiệm vụ quốc phòng, an ninh; nhận thức rõ và vạch trần những âm mưu, thủ đoạn chống phá, hoạt động nguy hại của các thế lực thù địch. Tăng cường bồi dưỡng kiến thức quốc phòng và an ninh cho đội ngũ cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng vũ trang và cho toàn dân. Lựa chọn nội dung và đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền, giáo dục, phổ biến chính sách, pháp luật phù hợp với từng đối tượng, từng địa bàn. Chủ động trong cuộc đấu tranh tư tưởng làm thất bại âm mưu chống phá của các thế lực thù địch và hoạt động lợi dụng vấn đề tôn giáo, dân tộc để chống phá, lôi kéo người dân tham gia.
Bốn là, bổ sung định hướng về phương thức tác chiến để bảo vệ Tổ quốc, sẵn sàng đối phó kịp thời với chiến tranh kiểu mới, chiến tranh công nghệ cao. Thường xuyên theo dõi, nghiên cứu, nắm chắc sự phát triển của các hình thức chiến tranh công nghệ cao, chiến tranh kiểu mới. Nghiên cứu, giải quyết đồng bộ các vấn đề chiến lược, từ quan điểm, nguyên tắc, phương thức và nội dung, cách thức tác chiến. Trên cơ sở đó, tập trung tổ chức xây dựng lực lượng, vũ khí trang bị, xây dựng, phát triển công nghiệp quốc phòng, công nghiệp an ninh đi thẳng vào hiện đại và ứng dụng công nghệ cao, nghiên cứu sản xuất các trang bị, vũ khí hiện đại của Việt Nam để ứng phó với tình hình.
Trong điều kiện mới, cần khẳng định: tiến hành chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện mới vẫn là phương thức hữu hiệu để đối phó với chiến tranh công nghệ cao, chiến tranh kiểu mới; trang bị vũ khí hiện đại là quan trọng, không thể thiếu nhưng vấn đề trọng yếu và cốt tử vẫn là nhân tố con người. Cần bồi dưỡng, đào tạo, xây dựng đội ngũ cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang có bản lĩnh chính trị, trình độ nắm bắt, khai thác, làm chủ khoa học, công nghệ, vũ khí trang bị hiện đại. Chú trọng hiện đại hóa, trí tuệ hóa nguồn nhân lực của lực lượng vũ trang. Phát triển nghệ thuật quân sự Việt Nam trong điều kiện mới trên cơ sở tiếp thu, ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ và có những giải pháp hữu hiệu phòng chống chiến tranh công nghệ cao, chiến tranh kiểu mới.
Năm là, xác định rõ thêm về đối tác, đối tượng. Để thực hiện tốt nội dung này, trước hết phải tuân thủ nghiêm các nguyên tắc. Đó là, phải tuân thủ sự lãnh đạo của Đảng, Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước, phục vụ lợi ích tối cao của quốc gia – dân tộc; nâng cao cảnh giác, bảo đảm bí mật quốc gia. Việc xác định đối tượng không nêu rõ đích danh mà thông qua mô tả nội dung, hành động để nhận thức cho đúng. Trên cơ sở đó, phải vừa xác định một cách khách quan, toàn diện về đối tượng bên ngoài trong từng tình huống, vừa chỉ rõ sự nguy hiểm của đối tượng bên trong. Phải cảnh giác, nắm rõ tình hình, kịp thời phát hiện âm mưu, hành động của đối tượng; vừa hợp tác, vừa đấu tranh, tranh thủ mặt đồng thuận, hạn chế mặt đối lập, thêm bạn, bớt thù, tránh bị cô lập, kịp thời ngăn chặn và phá vỡ những liên minh gây chiến tranh xâm lược đất nước.
Cần xác định rõ, trong sự cạnh tranh chiến lược quyết liệt giữa các nước lớn, nếu dựa vào nước lớn này làm đồng minh, liên minh thì sẽ trở thành đối tượng chiến lược, đối đầu với nước lớn khác. Vì vậy, một mặt, chúng ta kiên định chính sách “bốn không”, thêm bạn, bớt thù; hài hòa quan hệ với các nước lớn, thiết lập, củng cố quan hệ với tất cả các nước, nhất là các đối tác chiến lược, hội nhập quốc tế sâu rộng, gia tăng sự đan xen lợi ích chung với nhiều nước, tạo sự ủng hộ giúp đỡ quốc tế; ngăn ngừa nguy cơ và đối phó thắng lợi với mọi hình thức chiến tranh xâm lược. Mặt khác, chúng ta đẩy mạnh hợp tác đi vào chiều sâu với một số đối tác chiến lược toàn diện, xây dựng và thực hiện những cam kết đặc biệt quan trọng liên quan đến bảo vệ Tổ quốc.
Sáu là, bổ sung về định hướng bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Trước hết, cần xác định nguyên tắc: nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, thường xuyên trực tiếp là của Bộ Chính trị, Ban Bí thư;… sự quản lý, điều hành tập trung thống nhất của Nhà nước; sự tham gia của toàn dân, trong đó lực lượng vũ trang đóng vai trò then chốt. Để bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc, cần đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức, trách nhiệm, tạo sự đồng thuận, thống nhất cao về tư tưởng, hành động của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân và cả hệ thống chính trị đối với nhiệm vụ quan trọng này. Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng Quân chủng Hải quân, Phòng không – Không quân, lực lượng Cảnh sát biển, Kiểm ngư,… chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, có trang bị vũ khí phương tiện tiên tiến, hiện đại; nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu, làm nòng cốt bảo vệ vững chắc vùng trời, vùng biển, đảo của Tổ quốc. Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân trên biển ngày càng vững chắc; đẩy mạnh xây dựng lực lượng dân quân tự vệ biển; củng cố xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc trên các đảo và trên đất liền. Nâng cao trình độ nghiệp vụ, khả năng nghiên cứu, nắm và dự báo sớm, sát, đúng tình hình để chủ động tham mưu xử lý các tình huống kịp thời, hiệu quả. Tăng cường hợp tác quốc tế, nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại quốc phòng, an ninh trong bảo vệ chủ quyền, biển đảo.
GS, TS. VŨ VĂN HIỀN __________________
1 - ĐCSVN – Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, H. 2016, tr. 148 - 149.
2 - ĐCSVN – Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I, Nxb CTQGST, H. 2021, tr. 156.
3 - Sđd, tr. 157 - 158.
Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI),đột phá về lý luận,sáng tạo trong thực tiễn,Chiến lược bảo vệ Tổ quốc
Học viện Quốc phòng quán triệt, vận dụng Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XIII) vào công tác huấn luyện - đào tạo, nghiên cứu khoa học 14/11/2024
Quân khu 4 lãnh đạo xây dựng khu vực phòng thủ theo Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XIII) 04/11/2024
Tư duy của Đảng về phát triển công nghiệp quốc phòng, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới (Tiếp theo và hết) 28/10/2024
Quân đoàn 3 trước yêu cầu xây dựng tinh, gọn, mạnh, tiến lên hiện đại 17/10/2024
Quân khu 3 nâng cao chất lượng công tác hậu cần theo Nghị quyết số 1658-NQ/QUTW 07/10/2024
Tư duy của Đảng về phát triển công nghiệp quốc phòng, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới 26/09/2024
Quân khu 5 xây dựng lực lượng vũ trang vững mạnh theo Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XIII) 12/09/2024
Bộ Tư lệnh Bảo vệ Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh quán triệt, thực hiện chuẩn mực đạo đức của cán bộ, đảng viên 05/09/2024
Tư duy của Đảng về phát triển công nghiệp quốc phòng, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới 26/08/2024
Vận dụng phương châm “dĩ bất biến, ứng vạn biến” trong sự nghiệp quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc* 22/08/2024
Quân khu 4 lãnh đạo xây dựng khu vực phòng thủ theo Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XIII)
Tư duy của Đảng về phát triển công nghiệp quốc phòng, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới (Tiếp theo và hết)
Học viện Quốc phòng quán triệt, vận dụng Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XIII) vào công tác huấn luyện - đào tạo, nghiên cứu khoa học