Thứ Bảy, 23/11/2024, 05:58 (GMT+7)
Đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống Quán triệt, thực hiện nghị quyết
Xây dựng tiềm lực quốc phòng là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta, nhằm chủ động chuẩn bị, huy động mọi nguồn lực, tăng cường sức mạnh quốc phòng để bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Vấn đề quan trọng này tiếp tục được đề cập trong Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XIII) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới với nhiều nội dung, yêu cầu mới cao hơn, nặng nề hơn; do đó, cần quán triệt, triển khai, tổ chức thực hiện có hiệu quả ở các cấp, các ngành và toàn xã hội.
Tiềm lực quốc phòng là một nội dung cốt lõi trong nội hàm xây dựng nền quốc phòng toàn dân; đồng thời, là nhân tố cơ bản tạo nên sức mạnh của quốc gia. Theo Từ điển Bách khoa Quân sự Việt Nam, tiềm lực quốc phòng là khả năng về vật chất và tinh thần ở trong nước và ngoài nước mà mỗi quốc gia, dân tộc có thể huy động nhằm mục tiêu bảo vệ đất nước, giữ vững hòa bình, ngăn ngừa mọi âm mưu và hành động gây chiến của các thế lực thù địch, sẵn sàng đánh thắng chiến tranh xâm lược ở mọi quy mô, hình thức (nếu xảy ra). Điều đó cho thấy, tiềm lực quốc phòng có vị trí rất quan trọng, cần thiết và là bộ phận không thể thiếu trong tổng thể sức mạnh quốc gia. Hiện nay, nội hàm của tiềm lực quốc phòng đã cơ bản thống nhất, gồm: tiềm lực chính trị; tiềm lực kinh tế, văn hóa, xã hội; tiềm lực quân sự; tiềm lực khoa học và công nghệ; tiềm lực đối ngoại. Trong Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XIII) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới (sau đây gọi tắt là Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới), Đảng ta tiếp tục nhất quán chủ trương xây dựng, tăng cường tiềm lực quốc gia và tiềm lực quốc phòng, sẵn sàng huy động một cách nhanh nhất, kịp thời, hiệu quả nhất để xử lý thắng lợi các nhiệm vụ quốc phòng trong mọi tình huống. Đặc biệt, ở phần nhiệm vụ và giải pháp, Chiến lược nhấn mạnh: “xây dựng tiềm lực, lực lượng, thế trận quốc phòng, chuẩn bị nguồn lực quốc gia”1. Như vậy, lần đầu tiên trong một văn bản chiến lược, Đảng ta khẳng định tiềm lực quốc phòng là bộ phận quan trọng gắn liền với tiềm lực và nguồn lực tổng hợp của quốc gia, điều đó tạo mối quan hệ hữu cơ, sự gắn kết chặt chẽ, không tách rời giữa hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đây là thể hiện tư duy, tầm nhìn chiến lược của Đảng đã được kết tinh trong Chiến lược, góp phần không ngừng gia tăng tiềm lực, sức mạnh tổng hợp mọi mặt của quốc gia, trực tiếp tăng cường cho sức mạnh quốc phòng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong tình hình mới và được biểu hiện ở các vấn đề chủ yếu sau:
Xây dựng tiềm lực chính trị là vấn đề có vai trò quan trọng hàng đầu, quyết định khả năng xây dựng, huy động các tiềm lực khác để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới khẳng định: “Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”2. Đây là sự khẳng định mang tính nền tảng nhằm củng cố, tăng cường hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa; đạo đức, phẩm chất, năng lực của Đảng và hệ thống chính trị; sự ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, cùng giá trị văn hóa, truyền thống và lòng tin của nhân dân đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Từ sự khẳng định của Chiến lược, việc xây dựng tiềm lực chính trị muốn có hiệu quả, trước hết, cần coi trọng xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ; tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược và người đứng đầu có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín ngang tầm yêu cầu nhiệm vụ. Trong tình hình hiện nay, cùng với đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo, Đảng phải kiên quyết, kiên trì đấu tranh với các quan điểm sai trái thù địch, ngăn chặn đẩy lùi “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” từ trong nội bộ; nhất là đấu tranh có hiệu quả với tệ tham nhũng, tiêu cực, tư tưởng cục bộ, bè phái, “lợi ích nhóm”. Đồng thời, xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, gắn kết chặt chẽ giữa xây dựng pháp luật với tổ chức thi hành pháp luật, quản lý xã hội bằng pháp luật, xây dựng chính quyền điện tử. Phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, dân chủ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân, coi đây là nội dung tiềm lực có vai trò quyết định sẵn sàng huy động thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ quốc phòng. Cùng với đó, phải thường xuyên đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội, thực hiện quan điểm dựa vào dân, “dân là gốc” và phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”, xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc. Chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, thu hẹp khoảng cách giàu, nghèo giữa các vùng, miền, các tầng lớp nhân dân, thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội, chính sách dân tộc, tôn giáo trên các địa bàn chiến lược, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, biên giới, hải đảo, khơi dậy khát vọng xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Qua đó, tạo sự đồng thuận, chung sức, đồng lòng thực hiện thắng lợi nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc.
Tiềm lực kinh tế, văn hóa, xã hội, bao giờ cũng là nền tảng vật chất, tinh thần cốt yếu của đất nước nói chung và của nền quốc phòng toàn dân nói riêng. Xuất phát từ tầm quan trọng đó, Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới nêu rõ, phải “Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển đất nước nhanh, toàn diện, bền vững; kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng, an ninh”3. Đây là sự định hướng căn bản để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, các cấp, ngành, lực lượng và cả hệ thống chính trị xây dựng một trong những nội dung quan trọng nhất của tiềm lực quốc phòng - tiềm lực kinh tế, bởi xét cho cùng, kinh tế quyết định sức mạnh của quốc phòng; xây dựng tiềm lực kinh tế là chuẩn bị đất nước về kinh tế, sẵn sàng huy động để thực hiện các nhiệm vụ quốc phòng. Vì vậy, hiện thực hóa nội dung này đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; tăng cường chuyển đổi số quốc gia, phát triển kinh tế số, xã hội số; kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng, an ninh, coi trọng xây dựng, phát triển công nghiệp quốc phòng và các ngành nghề, lĩnh vực sản xuất lưỡng dụng; đẩy mạnh phát triển kinh tế gắn với bảo vệ chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ, biên giới, biển, đảo, bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc.
Cùng với đó, Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới đặc biệt coi trọng đến phát triển văn hóa, coi văn hóa là sức mạnh nội sinh, động lực để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chiến lược nhấn mạnh: phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, khơi dậy khát vọng xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc, xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người Việt Nam. Xây dựng môi trường văn hóa số phù hợp với nền kinh tế số, xã hội số, công dân số. Tăng cường công tác bảo tồn, tôn tạo và phát huy các giá trị văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc, văn hóa vật thể, phi vật thể của các vùng, miền, đồng bào các dân tộc thiểu số, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng nền công nghiệp văn hóa. Song song với đó, cần chủ động quảng bá văn hóa dân tộc ra bạn bè quốc tế tạo sức hấp dẫn, lan tỏa, thu hút bạn bè quốc tế đến với Việt Nam, góp phần tăng cường sức mạnh của hòa bình, để thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ quốc phòng, an ninh. Đây là những vấn đề rất quan trọng, liên quan trực tiếp đến nền tảng tinh thần xã hội, cần được quán triệt nghiêm túc, với tinh thần trách nhiệm cao.
Một trong những nhân tố cốt lõi, đặc trưng nhất của tiềm lực quốc phòng là tiềm lực quân sự, vì vậy cần phải xây dựng toàn diện cả về nhân tố con người và vũ khí, trang bị. Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới xác định: kiên trì và thực hiện nghiêm, hiệu quả đường lối quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân trong điều kiện chiến tranh sử dụng phổ biến vũ khí công nghệ cao. Đây là định hướng có tính nhất quán, xuyên suốt sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc; là vấn đề mang tính quyết định trong tạo và phát huy sức mạnh tổng hợp, sức mạnh răn đe và là bảo đảm tiên quyết để duy trì ổn định về mọi mặt, nhất là ổn định chính trị để đất nước phát triển nhanh, bền vững. Theo đó, cùng với tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và sự nghiệp quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc, Chiến lược nhấn mạnh phải tăng cường công tác giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, an ninh cho các đối tượng và toàn dân, trang bị kiến thức quân sự cần thiết cho nhân dân, sẵn sàng vũ trang toàn dân trong các tình huống quốc phòng trọng điểm, nhất là tình huống đất nước phải tiến hành chiến tranh. Xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, ưu tiên hiện đại hóa một số quân chủng, binh chủng, lực lượng, phấn đấu năm 2030, xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại. Trước mắt, thực hiện tốt điều chỉnh tổ chức Quân đội theo hướng tinh, gọn, mạnh, gắn với bố trí lại lực lượng và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực các cấp, có chính sách phù hợp, thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao vào phục vụ Quân đội. Xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu, lực lượng dân quân, tự vệ rộng khắp, chất lượng cao. Đồng thời, đầu tư nghiên cứu, cải tiến, sản xuất, mua sắm trang bị, vũ khí ngày càng tốt hơn, hiện đại hơn cho Quân đội, nhất là các loại vũ khí có tầm đánh xa, tầm cao, phương tiện không người lái, tác chiến ban đêm, tác chiến trong các điều kiện khó khăn, phức tạp. Tổ chức xây dựng các công trình quân sự, quốc phòng trọng điểm gắn với phát triển kinh tế - xã hội, ưu tiên các công trình bảo vệ biển, đảo, biên giới, địa bàn chiến lược. Chủ động nắm, đánh giá, dự báo tình hình, tham mưu chiến lược với Đảng, Nhà nước để có chủ trương, đối sách xử lý thắng lợi các tình huống quốc phòng và giải quyết các tranh chấp, bất đồng; ngăn ngừa, triệt tiêu các nguy cơ xung đột và chiến tranh, bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”, không để bị động, bất ngờ.
Tiềm lực khoa học và công nghệ là động lực quan trọng bậc nhất để phát triển lực lượng sản xuất và nền sản xuất hiện đại; đồng thời, là mũi nhọn, khâu then chốt trong tiến trình hiện đại hóa Quân đội. Vì vậy, việc xây dựng tiềm lực quan trọng này được Chiến lược đề cập một cách rõ nét, theo hướng tập trung phát triển một số ngành khoa học và công nghệ mũi nhọn, trực tiếp góp phần giải quyết các vấn đề cấp bách, phù hợp với điều kiện, nguồn lực của đất nước. Trong đó, ưu tiên chuyển giao, ứng dụng các tiến bộ khoa học và công nghệ vào các lĩnh vực kinh tế - xã hội, văn hóa, con người, quốc phòng, an ninh trọng yếu. Đẩy mạnh đầu tư, phát triển khoa học và công nghệ trong lĩnh vực quốc phòng; xây dựng nền công nghiệp quốc gia tự chủ, hiện đại, vững mạnh, lưỡng dụng, ưu tiên phát triển một số ngành công nghiệp mũi nhọn, công nghệ cao, huy động công nghiệp dân sinh vào công nghiệp quốc phòng. Trước mắt, tích cực nghiên cứu ứng dụng các thành tựu của khoa học và công nghệ quốc gia, quốc tế vào khoa học công nghệ trong lĩnh vực quân sự để hiện đại hóa vũ khí, trang bị kỹ thuật, nhất là cho các lực lượng xây dựng tiến thẳng lên hiện đại, lĩnh vực quân sự mũi nhọn, trọng yếu. Cùng với đó, đẩy mạnh nghiên cứu phát triển lý luận nghệ thuật quân sự chiến tranh nhân dân Việt Nam, các loại hình tác chiến chiến lược, chiến dịch, các hình thức chiến thuật, phù hợp với điều kiện tác chiến mới của chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, coi trọng nghiên cứu các loại hình tác chiến mới, tác chiến trên hướng biển, đảo, biên giới, các địa bàn chiến lược. Chuẩn bị chu đáo về mọi mặt, sẵn sàng huy động bảo đảm cho tác chiến thắng lợi (nếu chiến tranh xảy ra).
Đối ngoại là lĩnh vực có vai trò rất quan trọng trong việc góp phần kiến tạo, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước. Vì thế, trong xây dựng tiềm lực đối ngoại, Chiến lược chỉ rõ phải coi trọng xây dựng các chính sách đối ngoại và đội ngũ những người làm công tác đối ngoại trong điều kiện đất nước thời bình, sẵn sàng chuyển vào hoạt động đối ngoại khi có tình huống quốc phòng. Để hiện thực hóa, cần thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng. Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, huy động các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, không ngừng nâng cao tiềm lực, vị thế, uy tín quốc tế của đất nước. Thúc đẩy các mối quan hệ song phương đi vào chiều sâu, ổn định, bền vững lâu dài, ưu tiên quan hệ đối ngoại với các nước láng giềng, khu vực, các nước lớn, các nước bạn bè truyền thống và các nước khác, chủ động giải quyết các mâu thuẫn bằng biện pháp hòa bình, phù hợp với luật pháp quốc tế. Trong lĩnh vực quốc phòng, đối ngoại và đối ngoại quốc phòng phải lấy mục tiêu bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, ngăn chặn, đẩy lùi các nguy cơ xung đột và chiến tranh, bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa” là trước hết. Đồng thời, chủ động đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ những người làm công tác đối ngoại, chuẩn bị đầy đủ các phương tiện phục vụ công tác đối ngoại và các chính sách đối ngoại, sẵn sàng huy động tăng cường hoạt động đấu tranh ngoại giao trong các tình huống quốc phòng, an ninh.
Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XIII) khẳng định: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”4. Để tiềm lực quốc phòng trở thành nhân tố cốt lõi, cơ bản, tạo nên sức mạnh quốc phòng của quốc gia, đòi hỏi phải có sự gắn kết chặt chẽ các nguồn lực nêu trên trong một tổng thể thống nhất. Đi liền với đó, phải triển khai thực hiện với nhiều giải pháp đồng bộ, sáng tạo, hiệu quả, góp phần xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong tình hình mới.
Trung tướng, PGS, TS. TRẦN THÁI BÌNH _______________
1 - Ban Tuyên giáo Trung ương – Tài liệu nghiên cứu các Văn kiện Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII, Nxb CTQGST, H. 2023, tr. 311.
2 - Ban Tuyên giáo Trung ương – Tài liệu nghiên cứu các Văn kiện Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII, Nxb CTQGST, H. 2023, tr. 304.
3 - Sđd, tr. 307.
4 - ĐCSVN – Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I, Nxb CTQGST, H. 2021, tr. 104.
Tiềm lực quốc phòng,sức mạnh của quốc gia,tiềm lực chính trị; tiềm lực kinh tế,văn hóa,xã hội; tiềm lực quân sự; tiềm lực khoa học và công nghệ; tiềm lực đối ngoại
Học viện Quốc phòng quán triệt, vận dụng Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XIII) vào công tác huấn luyện - đào tạo, nghiên cứu khoa học 14/11/2024
Quân khu 4 lãnh đạo xây dựng khu vực phòng thủ theo Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XIII) 04/11/2024
Tư duy của Đảng về phát triển công nghiệp quốc phòng, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới (Tiếp theo và hết) 28/10/2024
Quân đoàn 3 trước yêu cầu xây dựng tinh, gọn, mạnh, tiến lên hiện đại 17/10/2024
Quân khu 3 nâng cao chất lượng công tác hậu cần theo Nghị quyết số 1658-NQ/QUTW 07/10/2024
Tư duy của Đảng về phát triển công nghiệp quốc phòng, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới 26/09/2024
Quân khu 5 xây dựng lực lượng vũ trang vững mạnh theo Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XIII) 12/09/2024
Bộ Tư lệnh Bảo vệ Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh quán triệt, thực hiện chuẩn mực đạo đức của cán bộ, đảng viên 05/09/2024
Tư duy của Đảng về phát triển công nghiệp quốc phòng, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới 26/08/2024
Vận dụng phương châm “dĩ bất biến, ứng vạn biến” trong sự nghiệp quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc* 22/08/2024
Tư duy của Đảng về phát triển công nghiệp quốc phòng, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới (Tiếp theo và hết)
Quân khu 4 lãnh đạo xây dựng khu vực phòng thủ theo Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XIII)
Học viện Quốc phòng quán triệt, vận dụng Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XIII) vào công tác huấn luyện - đào tạo, nghiên cứu khoa học