Đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống Quán triệt, thực hiện nghị quyết

QPTD -Thứ Hai, 21/05/2012, 14:28 (GMT+7)
Để xứng đáng là ngọn cờ lãnh đạo dân tộc trong thời kỳ mới

(Tiếp theo)

II. Quyết liệt tự đổi mới, tự chỉnh đốn - vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và chế độ 

Chưa bao giờ nhiệm vụ xây dựng Đảng lại trở nên cấp thiết và yêu cầu tự đổi mới, tự chỉnh đốn Đảng lại đòi hỏi sự quyết liệt như hiện nay. Đòi hỏi đó được đặt ra từ chính những yêu cầu, thách thức của thời đại và dân tộc đối với vai trò lãnh đạo cũng như tình hình Đảng ta hiện nay. Những ai quan tâm đều thấy một thực tế là, sự lãnh đạo của Đảng trong thời kỳ mới chỉ được giữ vững và phát huy, một khi Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh; vững vàng về bản lĩnh chính trị; tiên phong về trí tuệ, năng lực lãnh đạo; đội ngũ đảng viên trong sáng về đạo đức, lối sống, theo kịp yêu cầu và sự phát triển không ngừng của cuộc sống. Thế nhưng, trong Đảng hiện nay, bên cạnh đa số cán bộ, đảng viên có ý thức rèn luyện, nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, có ý thức phục vụ nhân dân, được nhân dân tin tưởng, đang tồn tại một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có cả những đảng viên giữ cương vị cao, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, rơi vào chủ nghĩa cá nhân, tham nhũng, tùy tiện, vô nguyên tắc,... Cùng với đó, còn là sự bất cập về đội ngũ cán bộ và việc chậm đổi mới về phương thức lãnh đạo trước sự phát triển của tình hình, nhiệm vụ. Điều đáng quan tâm là, thực trạng ấy không những kéo dài mà còn có chiều hướng ngày một nghiêm trọng, cho dù Đảng ta đã sớm cảnh báo và có quyết tâm ngăn ngừa, khắc phục. Các nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng và nhiều nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị trong những nhiệm kỳ gần đây đều đề cập tới các yêu cầu thiết yếu về xây dựng, đổi mới, chỉnh đốn (ĐM,CĐ) Đảng, trong đó có ngăn ngừa, khắc phục sự yếu kém, bất cập, tình trạng suy thoái trong Đảng (từ Đại hội VI tới nay, Đảng ta đã có 14 nghị quyết chuyên đề về xây dựng Đảng). Tuy nhiên, hiệu quả của những cố gắng đó chưa được như mong đợi của Đảng và kỳ vọng của nhân dân. Điều này đã được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thẳng thắn chỉ ra: “Chúng ta đã tiến hành công tác xây dựng Đảng thường xuyên, liên tục trong nhiều nhiệm kỳ, với nhiều biện pháp, nhiều cuộc vận động, làm cho Đảng ta ngày càng tiến bộ, trưởng thành, song vẫn còn nhiều hạn chế. Các mặt khuyết điểm, yếu kém chưa khắc phục được bao nhiêu, có mặt còn phức tạp thêm, gây băn khoăn, lo lắng trong cán bộ, đảng viên và nhân dân, tác động tiêu cực vào sức chiến đấu, vai trò lãnh đạo của Đảng. Đây thực sự là những cảnh báo không thể xem thường”1.

Từ thực tế trên, để tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong công tác xây dựng Đảng, Hội nghị Trung ương 4 (khóa XI) đã ban hành Nghị quyết “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”. Nghị quyết là sự thể hiện quyết tâm chính trị to lớn, một giải pháp ĐM,CĐ Đảng có tính chất đột phá, quyết liệt, nhằm tạo ra sự chuyển biến tích cực trên ba vấn đề trọng yếu, quyết định tới bản chất, sức mạnh và uy tín của Đảng hiện nay. Trên cơ sở đánh giá một cách khách quan, thẳng thắn tình hình công tác xây dựng Đảng trong hơn 25 năm đổi mới, Nghị quyết nhấn mạnh: cùng với việc tăng cường tổ chức thực hiện 8 nhiệm vụ trong công tác xây dựng Đảng đã được Đại hội XI của Đảng đề ra, phải tập trung cao độ lãnh đạo, chỉ đạo nhằm: kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp; xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, nhất là cấp Trung ương, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH,HĐH và hội nhập quốc tế; xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm người đứng đầu cấp ủy, chính quyền trong mối quan hệ với tập thể cấp ủy, cơ quan, đơn vị, tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Nghị quyết đã xác định bốn nhóm giải pháp thực hiện có tính chất đồng bộ, khả thi; đó là các nhóm giải pháp về: tự phê bình và phê bình, nêu cao tính tiền phong, gương mẫu của cấp trên; tổ chức, cán bộ và sinh hoạt đảng; cơ chế, chính sách; công tác giáo dục chính trị, tư tưởng. Thực chất các nhóm giải pháp trên là thiết chế bảo đảm về chính trị, tư tưởng, tổ chức, cơ chế chính sách đối với công tác xây dựng tổ chức đảng và giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên đã được cụ thể hóa theo yêu cầu cấp bách về xây dựng Đảng và tình hình cán bộ, đảng viên hiện nay.

Nghị quyết Trung ương 4 ra đời, bước đầu đã tạo ra sự đồng thuận sâu sắc giữa ý Đảng và lòng dân, trước hết về sự cần thiết và quyết tâm thực hiện. Có thể còn có sự trông chờ, thậm chí hoài nghi về hiệu quả thực tế của Nghị quyết; song, trong đông đảo đảng viên, quần chúng vẫn là sự đồng tình, nhất trí, kỳ vọng, bên cạnh những trăn trở, băn khoăn chính đáng, có trách nhiệm. Điều được quan tâm nhiều nhất hiện nay là phải xác định đúng nguyên nhân của tình trạng suy thoái, bất cập trong Đảng để có giải pháp ngăn chặn, khắc phục có hiệu quả, một khi vấn đề đó đã kéo dài và đối tượng là nhiều đảng viên có chức, có quyền? Thực tế cho thấy, quyết tâm ĐM,CĐ Đảng, nhằm giữ gìn, phát huy bản chất, truyền thống, phẩm chất cách mạng, bài trừ chủ nghĩa cá nhân với mọi biểu hiện, biến tướng tinh vi của nó hiện nay là một quá trình vô vàn khó khăn, phức tạp, bởi nó đụng chạm đến nhiều yếu tố, từ nhận thức, hiểu biết đến tâm lý, tình cảm, thói quen, cá tính của mỗi người. Nhưng, với tinh thần kiên quyết lần này, dù khó khăn đến đâu cũng "... không thể không làm, vì nó liên quan đến sinh mệnh của Đảng và sự tồn vong của chế độ"2. Quyết tâm đó của Đảng ta đã được thể hiện một cách nhất quán ngay từ quá trình Bộ Chính trị, Ban Bí thư chuẩn bị, xây dựng, ban hành Nghị quyết hết sức công phu, tỉ mỉ, kỹ lưỡng, đến việc lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức quán triệt, đưa Nghị quyết vào cuộc sống. Đặc biệt, nội dung Nghị quyết đã đánh giá tình hình công tác xây dựng Đảng trong hơn 25 năm đổi mới rất khách quan, thẳng thắn, không chung chung hoặc né tránh những vấn đề gai góc; chỉ rõ những hạn chế, yếu kém cả về tổ chức và con người, đặc biệt là yếu kém của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, cán bộ cao cấp của Đảng. Nghị quyết cũng đã phân tích kỹ nguyên nhân, không đổ lỗi cho khách quan và khẳng định nguyên nhân chủ quan là chính. Về vấn đề này, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khi phân tích nội dung của Nghị quyết đã chỉ rõ: “Đó chính là nguyên nhân chủ quan, do lỗi của chúng ta; do sự yếu kém, thiếu kiên quyết trong công tác giáo dục, lãnh đạo, quản lý; do sự thiếu rèn luyện, tu dưỡng, thực hành liêm chính của một số cán bộ, đảng viên; sự thiếu gương mẫu của một số cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp3.

Trong tổng thể các giải pháp, việc tập trung làm rõ trách nhiệm cá nhân, gương mẫu thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách là vấn đề cần phải được thực hiện hết sức nghiêm túc. Cần thấy rằng, tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng ta; là bảo đảm quan trọng quyết định tới sự đoàn kết, thống nhất, sức mạnh của Đảng. Song, nguyên tắc đó chỉ có thể được phát huy một khi thực hiện đúng “tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách”; trong đó, mọi đảng viên, trước hết đảng viên là cán bộ lãnh đạo, cán bộ chủ trì phải đề cao trách nhiệm chính trị, thực sự gương mẫu, chí công vô tư. Thế nhưng, trên thực tế vừa qua, những yêu cầu trên chưa được chú trọng thường xuyên, đầy đủ. Trong nhiều trường hợp, nguyên tắc tập trung dân chủ bị vi phạm, biến dạng trở thành tập trung quan liêu, dân chủ hình thức, thậm chí không dân chủ. Biểu hiện khá phổ biến là tình trạng quyền lực cá nhân bị lạm dụng, lấn át vai trò của tập thể, cấp trên "bao biện, làm thay", cấp dưới dựa dẫm, thụ động. Không ít nơi, dân chủ tập thể trở thành bình phong che đậy cho những việc làm sai lệch vì lợi ích cá nhân hoặc lợi ích nhóm,... Nhiều biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của đảng viên, cán bộ, một phần cũng phát sinh từ  đây.

Quá trình tổ chức, thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 vì vậy phải hết sức coi trọng việc đánh giá đầy đủ mức độ, biểu hiện của việc chấp hành nguyên tắc tập trung dân chủ, “tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách”. Từng tổ chức đảng và từng cán bộ, đảng viên phải tự phê bình một cách thực sự nghiêm túc; tự nhìn vào tập thể của mình, cá nhân mình xem có biểu hiện tập trung quan liêu, dân chủ hình thức, “tranh công, đổ lỗi” hay không? Bản thân mình là đảng viên, cán bộ, cấp ủy, bí thư, thậm chí là cán bộ cao cấp của Đảng, Nhà nước, Quân đội đã thực sự “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” chưa? Về trách nhiệm của cấp uỷ, cán bộ lãnh đạo, quản lý giữ trọng trách trong tổ chức đối với vấn đề đó ra sao? Đã làm gì và cần phải làm gì để tổ chức đảng trở nên trong sạch, vững mạnh; đội ngũ cán bộ, đảng viên thực sự vững vàng về tư tưởng chính trị, có trách nhiệm, tâm huyết với nhiệm vụ và gương mẫu về đạo đức, lối sống? Cùng với đó, hiệu quả của công tác kiểm tra, giám sát và các thiết chế bảo đảm đối với hoạt động lãnh đạo của các cấp ủy, tổ chức đảng đã được phát huy như thế nào trên thực tế?… Đi liền với đánh giá, chỉ ra thực trạng, nguyên nhân, trách nhiệm phải là các biện pháp sửa chữa, khắc phục cụ thể, kiên quyết, kịp thời, khả thi đối với những yếu kém, hạn chế, trước mắt là những yếu kém gay gắt, những khâu yếu, mặt yếu đang tồn tại trong mỗi tổ chức đảng và từng cán bộ, đảng viên.

Điều quan trọng nhất để Nghị quyết lần này thực sự đi vào cuộc sống là phải làm sao để những chuyển biến tích cực trong các cấp ủy, tổ chức đảng phải là thực chất, bền vững, không nhất thời, hình thức. Muốn vậy, phải thực hiện nghiêm túc, thường xuyên việc tự phê bình và phê bình đúng với tinh thần là thứ vũ khí sắc bén để bảo vệ Đảng từ bên trong. Vừa qua, việc xao lãng học tập, thực hiện lời dạy của Bác Hồ: “phải thật thà tự phê bình, thành khẩn phê bình”, chạy theo mục đích cá nhân, vụ lợi đã làm cho hiệu quả thực hiện phương thức này không đạt được như mục đích, yêu cầu cần có. Tình trạng khá phổ biến về tự phê bình và phê bình hiện nay là hình thức, xuôi chiều, chưa đi vào thực chất, trọng tâm mà nặng nề về sự vụ. Những biểu hiện khá phổ biến, như: “dĩ hòa vi quý”, "ngậm miệng ăn tiền", hùa theo, đoán ý số đông, ý cấp trên để phê bình hay "phê" nhưng thực chất là nịnh khéo cấp trên,... dường như ai cũng biết, nhưng không dám thẳng thắn chỉ ra. Thực tế đó đã dẫn tới nhiều tổ chức đảng sa vào yếu kém, trì trệ kéo dài, nội bộ mất đoàn kết ngày càng tăng,... nhưng thành tích thì vẫn được ghi nhận. Nhiều cán bộ, đảng viên mắc khuyết điểm, bị thi hành kỷ luật, thậm chí bị xử lý bằng pháp luật, song trước đó, tổ chức đảng không có biện pháp nhắc nhở, cảnh báo. Tình trạng tham nhũng, tiêu cực là một vấn nạn lớn trong Đảng, song, nhiều năm qua, việc phát hiện, ngăn ngừa từ tổ chức cơ sở đảng, trực tiếp là chi bộ ở nhiều nơi gần như bị vô hiệu hóa...

Thực hiện Nghị quyết lần này, Trung ương đòi hỏi việc tự phê bình và phê bình không những phải thực chất, thẳng thắn, không xuê xoa, cả nể, né tránh khuyết điểm, nhìn thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật,... mà còn phải được thực hiện nghiêm túc từ trên xuống dưới. Các cấp ủy, tổ chức đảng tiến hành kiểm điểm, tự phê bình trước, cá nhân đảng viên kiểm điểm, tự phê bình sau. Cấp trên kiểm điểm, tự phê bình trước, cấp dưới kiểm điểm, tự phê bình sau. Việc kiểm điểm, tự phê bình và phê bình theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 mang tính chất kiên quyết, thẳng thắn, nhưng cần được được thực hiện thận trọng, có lộ trình, "chống và xây", "xây và chống" phải đi đôi với nhau, tránh để lợi dụng vì mục đích cá nhân. Kiểm điểm, tự phê bình và phê bình là nhằm tham gia tích cực vào việc ngăn ngừa sự suy thoái, tìm ra các giải pháp hữu hiệu nhất để khắc phục những yếu kém, bức xúc, tồn đọng kéo dài trong từng tổ chức đảng, từng cơ quan, đơn vị và mục tiêu trước hết là nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, hiệu lực của quản lý, chỉ huy và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên. Do đó, quá trình tự phê bình và phê bình cũng đồng thời là quá trình xem xét, rà soát lại các nhiệm vụ, các quy định, quy chế của tổ chức, phát hiện những "lỗ hổng" trong công tác lãnh đạo, quản lý của cơ quan, đơn vị; đồng thời, phải được tiến hành thật sự công khai, dân chủ, minh bạch.

Quá trình kiểm điểm, tự phê bình và phê bình cũng đồng thời là quá trình thực hiện những giải pháp đồng bộ khác về tổ chức, cán bộ và sinh hoạt đảng; về cơ chế, chính sách và công tác giáo dục chính trị, tư tưởng. Trong đó, cần hết sức chú ý đến việc đổi mới cách lấy phiếu tín nhiệm, kê khai tài sản… hằng năm đối với các chức danh lãnh đạo trong cơ quan Đảng, Nhà nước, đoàn thể. Tuy nhiên, việc làm đó sẽ chỉ có hiệu quả cao một khi được gắn liền với các biện pháp bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch trong công tác cán bộ, loại trừ khả năng cán bộ lợi dụng chức vụ, vị trí công tác để vụ lợi. Cùng với công khai, dân chủ, minh bạch, hoạt động tự phê bình, phê bình cần được gắn liền với việc tăng cường xây dựng các quy chế bảo đảm phát huy dân chủ, công khai trong Đảng, tăng cường kiểm tra, giám sát, thực hiện chất vấn cán bộ, đảng viên. Nhiều yêu cầu trong giải pháp trên đã được nêu ra từ trước đó, song chưa có hiệu quả cần thiết đều xuất phát từ nguyên nhân chủ yếu là thiếu các biện pháp tổ chức thực hiện và kiểm tra, giám sát kiên quyết, kiên trì, cụ thể. Việc lấy phiếu tín nhiệm hoặc kê khai tài sản cùng một số quy định khác đối với cán bộ, đảng viên không có tác dụng thiết thực đối với yêu cầu xây dựng tổ chức đảng, giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên một khi việc làm đó mang nặng tính chất hành chính, hình thức, nhất là không được gắn liền, thực chất với việc kiểm tra, giám sát, nhận xét, bổ nhiệm, kỷ luật cán bộ, đảng viên và thiếu sự dân chủ, công khai. Tăng cường dân chủ, kỷ luật là một bảo đảm cơ bản cho việc phát triển của xã hội, thiết nghĩ điều đó càng đặc biệt cần thiết đối với yêu cầu ĐM,CĐ Đảng hiện nay.

Thực hiện thắng lợi việc ĐM,CĐ Đảng nói chung, những yêu cầu cấp bách về xây dựng Đảng theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) nói riêng đang là một trọng trách lịch sử của Đảng ta; là nhiệm vụ liên quan đến sinh mệnh của Đảng, sự tồn vong của chế độ ta hiện nay. Hơn lúc nào hết, việc làm đó đang đặt ra những thách thức to lớn về bản lĩnh chính trị, năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức đảng và sự tiên phong, gương mẫu, dũng khí cộng sản của mỗi đảng viên. Sự chuyển biến tích cực, từ nhận thức tới hành động thực tiễn theo tinh thần Nghị quyết, trong đó hiệu quả xây dựng tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh, xây dựng cơ quan, đơn vị vững mạnh toàn diện; kết quả hoàn thành nhiệm vụ, chức trách và uy tín đối với quần chúng là thước đo cần thiết nhất để đánh giá hiệu quả thực hiện Nghị quyết đối với từng tổ chức đảng và mỗi cán bộ, đảng viên.

HỒNG LÂM - KHẮC THƯỜNG - HỌC TỪ

(Kỳ sau: III - Mọi quyết tâm phải được thực hiện nghiêm túc trước hết từ người đứng đầu)

  ________

1, 2 - Nguyễn Phú Trọng - Quyết tâm tạo sự chuyển biến rõ rệt trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng, Tạp chí QPTD, Số 3/2012, tr. 4, 12.

3 - Nguyễn Phú Trọng - Quyết tâm tạo sự chuyển biến rõ rệt trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng, Tạp chí QPTD, Số 3/2012, tr. 9.

 

Ý kiến bạn đọc (0)

Đoàn kiểm tra của Ban Bí thư Trung ương Đảng làm việc với Ban cán sự Đảng bộ Tài chính
Sáng 27-9, Thượng tướng Ngô Xuân Lịch, Bí thư Trung ương Đảng, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, Trưởng đoàn kiểm tra của Ban Bí thư Trung ương Đảng làm việc với Ban cán sự Đảng Bộ Tài chính về kết quả thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI),...