Đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống Quán triệt, thực hiện nghị quyết

QPTD -Thứ Sáu, 20/01/2023, 06:51 (GMT+7)
Đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong lĩnh vực công nghiệp quốc phòng, hướng tới mục tiêu xây dựng quân đội hiện đại

Đẩy mạnh hợp tác quốc tế nhằm đúc rút kinh nghiệm, triển khai hiệu quả các hình thức hợp tác, chuyển giao, ứng dụng thành tựu khoa học, công nghệ thực hiện mục tiêu quốc gia khởi nghiệp từ công nghiệp quốc phòng là một trong những giải pháp chủ yếu trong Nghị quyết số 08-NQ/TW, ngày 26/01/2022 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh phát triển công nghiệp quốc phòng đến năm 2030 và những năm tiếp theo, cần được các cấp, các ngành quán triệt sâu sắc và triển khai thực hiện hiệu quả trong thực tiễn.

Đã từ lâu, việc hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực nói chung, về công nghiệp quốc phòng nói riêng luôn được Đảng, Nhà nước ta quan tâm, chăm lo. Ngay từ khi Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh thành lập Phòng Quân giới của Quân đội đã xác định hai nhiệm vụ chính của Ngành là: “Thu thập, mua sắm” và tổ chức nghiên cứu, sản xuất vũ khí cho bộ đội và nhân dân. Trong giai đoạn những năm 60, 70 của thế kỷ XX, các loại vũ khí chủ lực trang bị cho Quân đội cơ bản được “viện trợ từ các nước xã hội chủ nghĩa”. Thời kỳ đổi mới đất nước, nhất là sau khi Mỹ dỡ bỏ lệnh cấm vận, Việt Nam đã từng bước mở rộng quan hệ hợp tác quốc phòng với các quốc gia trên nhiều lĩnh vực, trong đó có công nghiệp quốc phòng.

Trong tiến trình “xây dựng Quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại; đến năm 2025, cơ bản xây dựng Quân đội tinh, gọn, mạnh, tạo tiền đề phấn đấu năm 2030 xây dựng Quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại” theo Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng và Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ Quân đội lần thứ XI, công nghiệp quốc phòng ngày càng có vai trò quan trọng. Do đó, kế thừa những thành tựu, kinh nghiệm thực hiện các Nghị quyết số 05, 27, 06 của Bộ Chính trị trước đây, Nghị quyết số 08-NQ/TW, ngày 26/01/2022 xác định mục tiêu phát triển công nghiệp quốc phòng là: “Đủ năng lực nghiên cứu, thiết kế, chế tạo, sản xuất vũ khí, trang bị kỹ thuật có tính năng chiến thuật - kỹ thuật cao theo yêu cầu trang bị cho lực lượng vũ trang, đáp ứng nhiệm vụ xây dựng Quân đội hiện đại”.

Để thực hiện mục tiêu đó, cùng với việc phát huy nội lực, tự nghiên cứu, sản xuất thì đẩy mạnh hợp tác quốc tế, đa phương hóa, đa dạng hóa các mối quan hệ về công nghiệp quốc phòng là giải pháp mang đến sự đột phá. Nhờ kết quả tích cực về đối ngoại quốc phòng, tiềm lực khoa học - công nghệ quân sự được nâng lên; công nghiệp quốc phòng từ chủ yếu là mua sắm chuyển sang tự nghiên cứu, thiết kế, chế tạo, sản xuất trong nước với tỷ lệ nội địa hóa ngày càng cao. Nhiều vũ khí, trang bị nội địa, thế hệ mới đã đưa vào huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, như: vũ khí bộ binh, các loại tàu thuyền, rađa, thiết bị tác chiến điện tử, một số loại tên lửa,... với công nghệ hiện đại từ các cường quốc công nghiệp quốc phòng. Hoạt động sản xuất, xuất khẩu các sản phẩm: bán thành phẩm súng bộ binh; tàu, xuồng tuần tra cao tốc; tàu cứu hộ tàu ngầm; một số sản phẩm quân sự, kinh tế,… sang các nước có nền công nghiệp phát triển của doanh nghiệp quốc phòng phát triển tốt, tăng trưởng doanh thu bình quân khoảng 6,7%/năm; góp phần tích cực phát triển kinh tế - xã hội, tạo nguồn lực tái đầu tư cho công nghiệp quốc phòng. Kết quả đó vừa khẳng định trí tuệ, năng lực của người lính công nghiệp quốc phòng, vừa khẳng định vai trò quan trọng của hợp tác quốc tế trong huy động tiềm lực phát triển ngành công nghiệp quan trọng này.

Trong giai đoạn tới, dự báo tình hình thế giới và khu vực tiếp tục có diễn biến nhanh chóng, phức tạp và rất khó dự báo. Cùng với xung đột vũ trang, chiến tranh cục bộ,... và những thách thức an ninh phi truyền thống ngày một gia tăng, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã, đang tác động nhiều chiều đến mọi quốc gia, làm xuất hiện nhiều loại vũ khí và phương thức, hình thái chiến tranh mới. Đối với nước ta, nhiệm vụ hiện đại hóa Quân đội đến năm 2030, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới đặt ra yêu cầu ngày càng cao đối với công nghiệp quốc phòng. Tình hình đó đòi hỏi chúng ta phải quán triệt sâu sắc và thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng về phát triển công nghiệp quốc phòng. Trong đó, đẩy mạnh hợp tác quốc tế về lĩnh vực này là xu thế tất yếu để huy động sức mạnh bên ngoài; tiếp thu thành tựu khoa học, trình độ quản lý, kinh nghiệm đi trước của các cường quốc và tìm hiểu pháp luật quốc tế trong việc xây dựng, phát triển công nghiệp quốc phòng lớn mạnh. Thực hiện điều đó, cần tiến hành đồng bộ nhiều giải pháp; trong đó, cần tập trung vào một số nhiệm vụ chủ yếu sau:

Một là, đẩy mạnh hoàn thiện thể chế và tập trung rà soát, đề xuất hoàn chỉnh đồng bộ hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về công nghiệp quốc phòng. Quán triệt, thực hiện quan điểm “tăng cường liên kết, chuyển giao, chuyển đổi công nghệ giữa công nghiệp dân sinh và công nghiệp quốc phòng, hình thành một số nền tảng đổi mới sáng tạo dùng chung” trong Nghị quyết số 29-NQ/TW, ngày 17/11/2022 của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 và mục tiêu của Nghị quyết số 08-NQ/TW, đòi hỏi cơ quan chức năng cần sớm xây dựng và ban hành Luật Công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp, cùng các văn bản quy phạm pháp luật, quy định, chế tài về hợp tác quốc tế trong lĩnh vực công nghiệp quốc phòng. Trước mắt, cần sớm nghiên cứu, ban hành các quy định, chế tài về liên doanh, liên kết với đối tác nước ngoài; nhập khẩu hàng hóa phục vụ công nghiệp quốc phòng; xuất khẩu sản phẩm, dịch vụ công nghiệp quốc phòng; hợp tác quốc tế về chuyển giao công nghệ; đào tạo, thuê chuyên gia nước ngoài; các hoạt động xúc tiến thương mại quân sự và các hoạt động khác. Xây dựng hệ thống quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật sản phẩm, hàng hóa công nghiệp quốc phòng phù hợp với tiêu chuẩn Việt Nam và quốc tế.

Hai là, xây dựng lộ trình hợp tác quốc tế về công nghiệp quốc phòng phù hợp. Đây là lĩnh vực nhạy cảm đối với những vấn đề chính trị, an ninh quốc tế; chịu tác động của nhiều yếu tố, như: mối quan hệ song phương, sự cân bằng quan hệ đa phương, độ tin cậy về chính trị; nguồn lực tài chính dành cho đầu tư hợp tác, v.v. Do đó, theo từng giai đoạn, các cơ quan cần có sự tham mưu, đề xuất và định hướng về tỷ trọng hợp tác quốc phòng với các quốc gia phù hợp với đường lối quân sự, quốc phòng, phương án tác chiến và quy hoạch công nghiệp hóa đất nước. Bên cạnh đó, cần có bước đi thận trọng, đề xuất phương thức hợp tác phù hợp với từng đối tác, từng lĩnh vực cụ thể dựa trên chủ trương hợp tác, nguồn lực đầu tư, ngân sách mua sắm, kế hoạch, chương trình các dự án đầu tư công. Đồng thời, phải bảo đảm lợi ích quốc gia, không để các vấn đề phát sinh trong thương mại quân sự ảnh hưởng tới mối quan hệ chính trị, kinh tế của đất nước, kiên định chính sách quốc phòng “bốn không” theo Sách trắng Quốc phòng Việt Nam năm 2019; xây dựng nền công nghiệp quốc phòng Việt Nam mang tính chất hòa bình, tự vệ, hợp tác và phát triển.

Ba là, mở rộng, đa dạng hóa hợp tác để xây dựng, phát triển công nghiệp quốc phòng. Chúng ta cần tích cực phổ biến luật pháp quốc tế, chủ động gia nhập các thể chế và công ước quốc tế về mua bán vũ khí và thương mại quân sự trên cơ sở bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc. Coi trọng hợp tác song phương và đa phương, củng cố mối quan hệ hợp tác với các đối tác truyền thống; mở rộng hợp tác với các đối tác chiến lược, có thế mạnh về khoa học, công nghệ. Đa dạng hóa hình thức và các kênh hợp tác, trao đổi thông tin để nắm bắt xu thế phát triển của vũ khí, trang bị kỹ thuật hiện đại; tìm hiểu, lựa chọn đối tác phù hợp trong cả chuyển giao công nghệ và xuất khẩu sản phẩm công nghiệp quốc phòng. Tiếp tục chủ động hội nhập, mở rộng hợp tác trên nhiều lĩnh vực khác nhau với đối tác truyền thống và đối tác mới có độ tin cậy chính trị nhất định, như: Nga, Ấn Độ, Nhật Bản, Israel, Hà Lan, v.v.

Cùng với đó, Ngành cần tập trung nghiên cứu làm chủ một số công nghệ trong nghiên cứu, thiết kế, chế tạo, sản xuất, sửa chữa, bảo dưỡng, tăng hạn các chủng loại vũ khí, trang bị kỹ thuật mới, hiện đại, phức tạp; đa dạng hóa sản phẩm công nghiệp quốc phòng, đảm bảo lưỡng dụng, hiện đại. Trọng tâm là hợp tác tiếp nhận chuyển giao công nghệ sản xuất một số lĩnh vực và sản phẩm mới mà công nghiệp quốc phòng của ta còn chưa đáp ứng được, như: vũ khí hiện đại trang bị cho lục quân; tàu quân sự và vũ khí dưới nước; tên lửa và hàng không vũ trụ quân sự; khí tài quân sự; vật tư kỹ thuật, một số công nghệ nền, công nghệ lõi,... từ các nước có trình độ tiên tiến của khu vực và thế giới, góp phần tự chủ bảo đảm trang bị, bảo đảm kỹ thuật, đáp ứng yêu cầu cả trước mắt và lâu dài.

Bốn là, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế trong đào tạo nguồn nhân lực cho xây dựng, phát triển công nghiệp quốc phòng. Chú trọng hợp tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý, đội ngũ chuyên gia đầu ngành khoa học, công nghệ có khả năng điều phối, tổ chức thực hiện các chương trình, dự án lớn; xây dựng đội ngũ chuyên gia công nghệ, kỹ sư trưởng, tổng công trình sư trên các lĩnh vực trọng điểm, như: cơ khí chế tạo; hóa chất, vật liệu mới, luyện kim đặc biệt; nghiên cứu, thiết kế vũ khí chiến lược, vũ khí có khả năng tích hợp cao, vũ khí cơ động,... nhằm từng bước chế tạo, sản xuất thành công vũ khí, trang bị kỹ thuật đáp ứng yêu cầu trang bị hiện đại cho Quân đội. Quan tâm bồi dưỡng nguồn nhân lực công nghiệp quốc phòng chất lượng cao, nguồn nhân lực chuyên trách làm thương mại quân sự; bảo đảm sự cân đối, đồng bộ giữa đội ngũ nghiên cứu khoa học, chuyên gia kỹ thuật gắn trực tiếp với sản xuất, tạo cơ hội cho cán bộ làm công tác nghiên cứu được tham gia sâu vào hợp tác chuyển giao công nghệ để học hỏi kinh nghiệm, nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn.

Năm là, mở rộng thị trường xuất khẩu, tích cực xúc tiến thương mại cho sản phẩm công nghiệp quốc phòng và kinh tế. Trước mắt, cần chú trọng xây dựng sản phẩm chiến lược, có thương hiệu phù hợp với nhu cầu thị trường; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, kết nối doanh nghiệp công nghiệp quốc phòng với doanh nghiệp dân sự và tham gia sâu, rộng vào chuỗi giá trị cung ứng toàn cầu. Phối hợp với các bộ, ban, ngành thực hiện hoạt động xúc tiến thương mại, kết nối cung - cầu cho sản xuất - tiêu thụ. Tích cực giới thiệu sản phẩm công nghiệp quốc phòng thông qua triển lãm quốc phòng quốc tế như đã từng tham gia ở: Indodefense năm 2018; Triển lãm Quốc phòng quốc tế 2022 tại Việt Nam và triển lãm trong nước, như: Vietship, Việt Bắc,... để thu hút, nhận được sự quan tâm, đánh giá của đối tác, bạn bè quốc tế.

Trên cơ sở những kết quả hợp tác quốc tế, công nghiệp quốc phòng Việt Nam cần tiếp tục xác định: lấy tính chủ động, tự lực, tự cường làm trung tâm, thực hiện chủ trương đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ hợp tác mua sắm, sản xuất, bảo đảm kỹ thuật cho vũ khí, trang bị kỹ thuật và chuyển giao công nghệ. Đây là yếu tố quan trọng để nền công nghiệp quốc phòng nước ta đạt được nhiều thành tựu hơn nữa trong nghiên cứu, phát triển, sản xuất, chế tạo sản phẩm mới, góp phần hiện đại hóa Quân đội, bảo vệ vững chắc Tổ quốc.

Đại tá, TS. PHẠM THANH KHIẾT, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Công nghiệp quốc phòng

 

Ý kiến bạn đọc (0)

Đoàn kiểm tra của Ban Bí thư Trung ương Đảng làm việc với Ban cán sự Đảng bộ Tài chính
Sáng 27-9, Thượng tướng Ngô Xuân Lịch, Bí thư Trung ương Đảng, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, Trưởng đoàn kiểm tra của Ban Bí thư Trung ương Đảng làm việc với Ban cán sự Đảng Bộ Tài chính về kết quả thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI),...