Thứ Sáu, 22/11/2024, 17:45 (GMT+7)
Đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống Quán triệt, thực hiện nghị quyết
Các văn kiện được Đại hội XI của Đảng thông qua, chứa đựng nhiều điểm mới về lý luận, phản ánh sự phát triển về năng lực tư duy lý luận của Đảng qua thực tiễn 25 năm đổi mới. Một trong những điểm mới nổi bật là nhận thức lý luận của Đảng về dân chủ và xây dựng nền dân chủ XHCN ở nước ta.
Dân chủ là một trong những thành tựu quan trọng của sự nghiệp đổi mới, được thể hiện sinh động trong tất cả các lĩnh vực của đời sống, từ kinh tế đến chính trị, từ văn hóa đến xã hội, từ thể chế đến chính sách. Nhân dân ta ở khắp mọi vùng, miền của đất nước cũng như đồng bào ta đang làm ăn sinh sống ở nước ngoài, nhất là những ai có dịp về thăm Tổ quốc đều cảm nhận trực tiếp thành tựu dân chủ qua đời sống hằng ngày của chính mình, qua những đổi thay to lớn của đất nước. Sinh khí của xã hội và sức sống của đổi mới có được nhờ dân chủ. Hai bước ngoặt lớn mà đổi mới tạo ra qua một phần tư thế kỷ là, đất nước ra khỏi khủng hoảng và tình trạng kém phát triển, giờ đây đang hướng tới phát triển nhanh và bền vững đã là điều xác tín về thành tựu dân chủ, về vai trò mục tiêu và động lực của dân chủ đối với sự phát triển đất nước.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: dân chủ có nghĩa là dân là chủ và dân làm chủ. Dân chủ là của quý báu nhất trên đời của dân. Thực hành dân chủ rộng rãi sẽ là chiếc chìa khóa vạn năng để giải quyết mọi khó khăn. Các văn kiện Đại hội XI, với điểm nhấn về dân chủ, đã thể hiện rõ chiều sâu nhân văn đó của tư tưởng Hồ Chí Minh. Đổi mới ở Việt Nam là đổi mới theo định hướng XHCN. Lý tưởng, mục tiêu và con đường phát triển của Việt Nam mà Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh lựa chọn và được nhân dân ta kiên trì thực hiện là độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Đây không chỉ là lý tưởng, mục tiêu mà còn là phương thức phát triển của Việt Nam. Phương thức ấy là quá độ lên CNXH, bỏ qua chế độ TBCN, nên Việt Nam không trải qua nền dân chủ tư sản (DCTS), mà nhân dân ta xây dựng nền dân chủ XHCN. Theo đó, thể chế dân chủ và chế độ chính trị nói chung ở nước ta, không thể là DCTS, không thể là nhà nước pháp quyền tư sản với mô hình tam quyền phân lập. Dù rằng với tư duy đổi mới và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, chúng ta vẫn chú trọng học tập, tham khảo với tinh thần phê phán và có chọn lọc những thành tựu mà nền văn minh nhân loại đã đạt được trong lịch sử phát triển của CNTB.
Trong lịch sử tiến hóa của các nền dân chủ, dân chủ XHCN là một hiện tượng lịch sử còn rất mới mẻ và non trẻ. Nếu CNTB và nền DCTS đã có lịch sử năm, sáu trăm năm, thì nền dân chủ XHCN mới chỉ bắt đầu từ sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga (1917), chưa đầy một thế kỷ. Sau đổ vỡ chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông Âu, sự tan vỡ hệ thống XHCN, CNXH và dân chủ XHCN tiếp tục cải cách và đổi mới để tồn tại, phát triển, để tự hoàn thiện trong những điều kiện lịch sử mới. CNXH và dân chủ XHCN đang vận động trong những khó khăn, thách thức, nhưng đây là những khó khăn, thách thức của sự trưởng thành. Vượt qua những khó khăn, thách thức đó, CNXH và dân chủ XHCN lại đứng trước những thời cơ, vận hội để phát triển và sẽ tự khẳng định mình. Triển vọng của CNXH là tích cực và dân chủ XHCN thuộc về bản chất, đặc trưng, là mục tiêu và động lực phát triển của chế độ xã hội kiểu mới. Sự khẳng định này thể hiện niềm tin khoa học có cơ sở lý luận và thực tiễn xác thực về CNXH và dân chủ XHCN, được chứng minh bởi lịch sử đã trải qua và thực tiễn hiện nay chứ không phải giáo điều, chủ quan, tư biện.
Dân chủ XHCN là thành quả đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân và toàn thể những người lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, chống ách bóc lột, áp bức và nô dịch của CNTB, thực hiện quyền tự quyết của các dân tộc. Đó là quyền tự do chính trị, quyền dân chủ và làm chủ của những người tự do, thực hiện bình đẳng và công bằng xã hội trong sự phát triển cho tất cả mọi người. Hơn 160 năm về trước, trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C. Mác và Ph. Ăng-ghen đã khẳng định: sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người. Đây là mục đích tự thân của lịch sử, là bản chất nhân đạo, nhân văn của CNXH và chủ nghĩa cộng sản.
Dân chủ XHCN không hình thành từ một mảnh đất trống không, nó phủ định DCTS một cách biện chứng; nó kế thừa những mặt tiến bộ và hợp lý, lọc bỏ để vượt lên những gì không phù hợp, thậm chí đối lập với bản chất XHCN. Trước CNXH, DCTS là nền dân chủ hiện đại, tiến bộ, hơn hẳn dân chủ trong các xã hội trước đó. Chính DCTS đã đóng vai trò lịch sử xứng đáng khi giải phóng cá nhân, thực hiện tự do cá nhân để khẳng định cái tôi bản ngã, có cá tính, cho dù đó là cái tôi tư sản và chủ nghĩa cá nhân tư sản cực đoan, vị lợi và vị kỷ. Cái giá đỡ vật chất, cái bệ đỡ kinh tế của DCTS là chế độ tư hữu TBCN về tư liệu sản xuất. Ý thức hệ của DCTS là chủ nghĩa cá nhân, tôn thờ lợi nhuận và làm giàu bằng mọi giá. Khung khổ pháp lý của DCTS là nhà nước pháp quyền tư sản, nó thực hiện và bảo vệ quyền lực, lợi ích cho một thiểu số hữu sản. Dĩ nhiên, một cách khách quan, tất yếu để tồn tại, nó cũng phải tính đến nhu cầu xã hội, thỏa mãn đến một mức độ nào đó lợi ích của các công dân và của xã hội, dù chỉ là ghi nhận pháp lý hoặc hình thức. Trong bản chất của nó, CNTB và DCTS không thể tự mình giải quyết được mâu thuẫn nội tại và những hạn chế tất yếu của nó. Cuộc đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ và tiến bộ xã hội vẫn thường xuyên diễn ra giữa những người lao động xung đột về quyền và lợi ích với các chủ tư bản, với các thiết chế quyền lực tư sản. Thất nghiệp, nghèo đói, bất công xã hội, bạo lực, tội ác và tội phạm vẫn là hiện thực không thể che đậy trong xã hội TBCN đối với một bộ phận không nhỏ dân cư xã hội. Đấu tranh cho dân chủ và nhân quyền, trên thực tế lại đang diễn ra một cách bức xúc ngay trong lòng xã hội TBCN, cho dù các chính khách tư sản vẫn thường ra sức quảng bá thành tựu dân chủ, nhân quyền của họ; đồng thời, dùng dân chủ, nhân quyền như một áp lực chính trị trong quan hệ quốc tế với các nước khác.
Tuy nhiên, phải thừa nhận rằng, trình độ và kinh nghiệm xây dựng thể chế, nhất là luật pháp, tính nền nếp, kỷ cương trong thi hành luật pháp, nếp sống theo tập quán pháp để giữ nghiêm hiệu lực pháp luật; các kỹ năng và công nghệ chính trị, nhất là trong quản lý nhà nước, trình độ học vấn, học thức và văn hóa của con người trong hoạt động tham chính… dưới CNTB và của nền DCTS có thể gợi mở nhiều tham khảo bổ ích đối với chúng ta ngày nay. Xây dựng nền dân chủ XHCN, Nhà nước pháp quyền XHCN và đổi mới chính trị, trong đó có đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta, có thể và cần phải học tập, tham khảo kinh nghiệm của các nước tư bản. Trên quan điểm đổi mới và phát triển, thái độ và phương pháp đó là cần thiết. Để phát triển và hoàn thiện nền dân chủ XHCN, cần phải áp dụng quy luật tiếp biến văn hóa nhìn từ góc độ dân chủ và văn hóa dân chủ.
Về bản chất, dân chủ XHCN là nền dân chủ của đông đảo nhân dân trong xã hội mà họ là những người chủ, những chủ thể xây dựng, sáng tạo và bảo vệ Tổ quốc. Dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân, nhân dân tự tổ chức và thực hiện, trước hết và chủ yếu là thông qua nhà nước của mình. Dân chủ là vấn đề quyền lực và lợi ích, là quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng, giữa công dân với nhà nước, giữa luật pháp với đạo đức, giữa ý thức dân chủ với năng lực thực hành dân chủ, trước hết là giữa ý thức với hành vi. Chủ thể dân chủ là dân. Đây là chủ thể ủy quyền, chủ thể tham gia xây dựng, giám sát và kiểm tra Nhà nước, tham gia xây dựng Đảng và các đoàn thể. Nhà nước là nhà nước của dân, do dân, vì nhân dân nên dân là chủ sở hữu nhà nước của mình. Nhà nước và các tổ chức công quyền, các công sản là sở hữu của dân. Dân làm chủ nhà nước cũng như dân là chủ sở hữu tài sản chính trị của mình. Tham chính không chỉ có công chức và quan chức, mà chính nhân dân là đối tượng tham chính rộng rãi nhất, qua hành vi chính trị, tính tích cực chính trị của công dân.
Quyền con người và quyền công dân là một tập hợp vô số các quyền đồng thời cũng tất yếu bị ràng buộc, chi phối bởi trách nhiệm, nghĩa vụ, bổn phận tương ứng, do luật pháp điều tiết. Chung quy lại, các quyền đó đều quy vào quyền tồn tại như một con người và quyền phát triển như một nhân cách. Dân đã có quyền làm chủ thì cũng phải tự giác thi hành nghĩa vụ của người chủ. Nhà nước, là thiết chế chính trị quan trọng bậc nhất để thực hiện dân chủ, quan hệ với công dân, phục vụ dân với tư cách chủ thể tiếp nhận sự ủy quyền của dân để thực thi quyền lực nhân dân và để phục vụ dân, bảo vệ dân. Quan hệ giữa Nhà nước với công dân biểu hiện qua quan hệ giữa công chức và công dân. Do đó, phải đề cao kỷ luật công vụ và đạo đức công chức để tận tụy phục vụ dân, thực hiện trách nhiệm với dân, thường xuyên chăm lo phát triển sức dân, bồi dưỡng sức dân và tiết kiệm sức dân như Hồ Chí Minh đã dạy. Đem lại lợi ích cho dân, thực hiện được quyền lực của dân, làm cho dân thực hiện quyền làm chủ của mình bằng dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện, đó là mục tiêu của dân chủ, cũng tức là mục tiêu phát triển đất nước.
Dân chủ XHCN là mục tiêu của công cuộc đổi mới, đồng thời là mục tiêu và bản chất của CNXH. Điều này không chỉ được làm rõ từ phương diện lý luận, mà còn được nhận biết từ thực tiễn cuộc sống của người dân, từ thực tiễn vận động và phát triển của đổi mới ở nước ta. Đời sống thường nhật với những nhu cầu và lợi ích thiết thân, bức xúc để tồn tại và phát triển đã hối thúc người dân phải tự mình đổi mới, từ cách nghĩ đến cách làm, tự vượt lên khỏi những rào cản của cơ chế và chính sách đang trói buộc mình. Cuộc sống gợi ý, mách bảo và thúc dục người dân đổi mới và hành động đổi mới, nhất là ở nông thôn 25 năm về trước chính là hành động theo mệnh lệnh của cuộc sống. Phát hiện và tổng kết thực tiễn ấy, Đảng đã khái quát thành lý luận và khởi xướng đường lối đổi mới. Quyết sách ấy là kịp thời, sáng suốt, bởi Đảng đã bắt đúng mạch đập của cuộc sống, đáp ứng sự mong mỏi, chờ đợi của người dân. Sự gặp gỡ tự nhiên này giữa ý Đảng với lòng dân là ở lợi ích và quyền làm chủ của người dân, nó chính là dân chủ hiển hiện trực tiếp trong thực tiễn như cơm ăn, áo mặc, việc làm trước khi nó được luận giải bằng lý luận.
Đại hội VI của Đảng mới chỉ hình dung đổi mới vì dân giàu, nước mạnh, xã hội văn minh; đến Đại hội VII, đã có thêm mục tiêu công bằng xã hội, trong đó không chỉ có công bằng về phân phối lợi ích mà còn là công bằng về cơ hội phát triển cho tất cả mọi người. Về bản chất, đó cũng chính là dân chủ, là phương diện nhân văn của dân chủ, là quyền sống, quyền được phát triển của con người. Nhưng phải đến Đại hội IX (2001), dân chủ mới thực sự định hình trong hệ mục tiêu đổi mới, đó cũng là chuỗi giá trị của phát triển: Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh để đạt tới tự do và hạnh phúc. Đến Đại hội XI, dân chủ mới được nhận thức thực sự là giá trị hàng đầu, là cơ sở để thực hiện bình đẳng và công bằng, để đoàn kết và đồng thuận. Con người chẳng những là mục tiêu và động lực của phát triển mà còn được xác định là trung tâm và chủ thể của phát triển xã hội.
Mục tiêu dân chủ được thể hiện trước hết ở dân chủ trong kinh tế, dân chủ trong chính trị. Cùng với nó còn là dân chủ trong văn hóa, trong phát triển xã hội và quản lý xã hội, hướng trực tiếp vào việc giải quyết các vấn đề xã hội, chính sách xã hội và an sinh xã hội cho con người, vì con người. Bởi dân chủ là mục tiêu, nên ngay khi chính thể dân chủ vừa mới ra đời, Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: chúng ta phải làm ngay, làm cho dân có ăn, có mặc, có nhà ở, được học hành, được tự do đi lại, được chăm sóc sức khỏe, được hưởng quyền tự do mà họ xứng đáng được hưởng với tư cách người chủ. Người còn nói rõ, dân chỉ biết tới giá trị của tự do, dân chủ khi dân được ăn no, mặc ấm. Nước nhà tranh đấu được độc lập, tự do mà dân vẫn đói rét, cực khổ, lạc hậu thì độc lập, tự do cũng chẳng để làm gì.
Dân chủ là mục tiêu, do đó phải đặc biệt chăm lo xây dựng và củng cố chính quyền Nhà nước, có luật pháp để thi hành các công việc quản lý và để bảo vệ dân, có nền hành chính công minh bạch để phục vụ dân, không phiền hà, sách nhiễu dân, không quan liêu, tham nhũng gây tổn hại tới dân. Những thiết chế chính trị trọng yếu nhất, như Đảng và Nhà nước tồn tại cũng chỉ vì dân, vì mục tiêu dân chủ. Những tổ chức, đoàn thể xã hội của dân phải tỏ rõ hiệu quả thực tế, gắn bó mật thiết với dân, làm cho dân cảm nhận trực tiếp rằng: nó cần thiết, thực sự cần thiết và hữu ích với mình như thế nào. Chính sách của Đảng và Nhà nước, theo Hồ Chí Minh là pháp lý, đạo lý và đạo nghĩa lớn nhất. Nó phải tỏ rõ sự quang minh, chính đại, chính tâm và thân dân để thực sự tiến tới dân chủ. Xét trên phương diện văn hóa, mục tiêu dân chủ phải trở thành văn hóa dân chủ; trong đó, quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với tổ chức, thiết chế và thể chế phải được đảm bảo bởi các chuẩn mực dân chủ, phải thể hiện cả tính nhân văn và tính pháp lý trong ứng xử với người, với việc. Đó chính là tinh thần trọng dân và trọng pháp. Nhà nước pháp quyền đảm bảo cho dân chủ được thể chế hóa và được thực hiện trong tất cả các lĩnh vực, các cấp độ của đời sống. Dân chủ đòi hỏi Nhà nước pháp quyền phải thực sự là của dân, do dân và vì dân. Nếu luật pháp, trật tự, kỷ cương là giới hạn và hành lang vận động của dân chủ thì dân chủ đòi hỏi luật pháp phải tiến bộ, văn minh, được thi hành nghiêm minh và công minh với tất cả mọi người trong xã hội.
Nếu dân chủ XHCN là mục tiêu xây dựng và phát triển đất nước trong tiến trình đổi mới, thì mỗi bước tiến trong việc thực hiện mục tiêu dân chủ cũng làm bộc lộ sức mạnh, tác dụng và hiệu quả của dân chủ với tư cách là động lực của phát triển. Nó thực hiện và giải quyết được lợi ích giữa cá nhân và cộng đồng. Đó là lợi ích kinh tế - vật chất và cùng với nó là lợi ích văn hóa, tinh thần. Nó là ngọn nguồn dẫn tới tính tích cực lao động, thúc đẩy phát triển kinh tế và phát triển xã hội nói chung. Nó làm giảm tối đa và tiến tới xóa bỏ tình trạng tha hóa lao động, đạo đức và lối sống. Nhờ dân chủ trong các quan hệ lợi ích mà xã hội có thể ra khỏi tình trạng sức ỳ, sự trì trệ trong sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy năng suất, chất lượng, hiệu quả, vì lợi ích cá nhân và cũng vì lợi ích cộng đồng. Kinh tế thị trường cùng với kinh tế tri thức là tác nhân kinh tế quan trọng nhất để phát triển dân chủ; đồng thời, dân chủ trở thành xung lực mạnh mẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cả về tốc độ, quy mô và chất lượng. Thể chế dân chủ, các chính sách dân chủ thúc đẩy thái độ và hành vi của từng cá nhân, của cộng đồng trong đổi mới, phát triển và hiện đại hóa.
Con người là nhân tố cơ bản nhất, có mặt trong cả lực lượng sản xuất (LLSX) và quan hệ sản xuất (QHSX). Muốn giải phóng và phát triển mạnh mẽ LLSX để trên cơ sở ấy từng bước xây dựng QHSX mới, tiến bộ, phù hợp với trình độ của LLSX thì phải giải phóng mọi tiềm năng sáng tạo của con người và xã hội, phải nâng cao đời sống, chất lượng sống và trình độ của người dân. Dân chủ thúc đẩy sự biến đổi và phát triển, khai thông các nguồn lực, nhân lên sức mạnh của nội lực và ngoại lực để phát triển.
Động lực dân chủ không chỉ biểu hiện ở kinh tế mà còn biểu hiện ngày càng rõ hơn ở chính trị, khi quyền lực và ý chí của nhân dân được thực hiện thông qua dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện với cơ chế bầu cử dân chủ, với thể chế rõ ràng, công khai, minh bạch. Một khi tiếng nói của người dân được tôn trọng, dân không chỉ là đối tượng thụ hưởng lợi ích mà còn là chủ thể tham gia đánh giá chính sách, giám sát và kiểm tra việc thực hiện chính sách cũng như hoạt động của các cơ quan công quyền nói chung, thì dân chủ chính trị sẽ tỏ rõ sức mạnh động lực của nó đối với tiến bộ và phát triển xã hội. Môi trường xã hội dân chủ sẽ làm hình thành dư luận xã hội tích cực, thúc đẩy hành động sáng tạo của đông đảo quần chúng để bảo vệ chế độ, bảo vệ Đảng và Nhà nước, chống lại những hành vi phản dân chủ. Chỉ có thực hành dân chủ rộng rãi, dựa hẳn vào sức mạnh, ý chí của dân mới có thể chống được tham nhũng. Đó là sự phát huy tốt nhất vai trò động lực của dân chủ trong tình hình hiện nay ở nước ta.
Xây dựng con người, phát triển văn hóa, thực hiện quốc sách hàng đầu với giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ, nhất là thực hiện đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân nhằm chấn hưng đạo đức dân tộc, làm cho gia đình thực sự là những tế bào lành mạnh của xã hội, tạo ra đột phá về nguồn nhân lực chất lượng cao không thể không tính đến vai trò động lực của dân chủ.
Đi vào kinh tế thị trường và có Nhà nước pháp quyền, mọi công dân được phép làm tất cả những gì mà pháp luật không cấm, còn công chức chỉ làm những gì mà pháp luật cho phép. Mọi người được khuyến khích làm giàu theo pháp luật, bằng lao động của mình. Kinh tế tư nhân tỏ rõ là một động lực của phát triển kinh tế và được khuyến khích phát triển mạnh mẽ, lâu dài. Nhà nước chăm lo giải quyết các vấn đề xã hội và an sinh xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, bằng các biện pháp điều tiết để chăm lo cho các đối tượng yếu thế, thua thiệt trong phát triển để đảm bảo công bằng xã hội. Luật pháp và đạo đức là hai cột chống đỡ để giữ cho xã hội lành mạnh, giảm mạnh mẽ những tổn thương và hệ lụy do mặt trái của kinh tế thị trường gây ra. Sức mạnh ấy có được từ dân chủ, xét trên toàn cảnh xã hội.
Với từng người, dân chủ là động lực mạnh mẽ để thực hiện tự do tư tưởng, hình thành nhân cách trung thực và sáng tạo. Dân chủ là chất dinh dưỡng và sinh khí tốt nhất cho sự nuôi dưỡng và phát triển các tài năng, cho sự hình thành nhân cách làm người, khắc phục triệt để tình trạng phân thân, giả dối, xu thời, cơ hội làm lệch lạc, biến dạng nhân cách do thiếu vắng hoặc yếu kém về dân chủ gây ra. Chính ở đây, dân chủ trong ứng xử, đối xử với con người, trong giáo dục đạo đức và lối sống, trong tổ chức đời sống và quản lý xã hội nổi bật vai trò, tác dụng động lực của nó như một đột phá. Trong chính sách dùng người, đào tạo bồi dưỡng cán bộ, phát hiện và trọng dụng nhân tài, trọng đãi hiền tài vì sự hưng thịnh của quốc gia dân tộc, muốn có đột phá phải trên nền tảng dân chủ mà cốt lõi của nó là tôn trọng giá trị nhân cách con người, tin cậy năng lực, quý trọng phẩm giá, khách quan công bằng trong đánh giá và sử dụng cán bộ, có chính sách đãi ngộ thỏa đáng để con người tận tụy hết mình trong công việc, trong sự nghiệp phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân.
Thực hành dân chủ rộng rãi, nhất là dân chủ trong Đảng là làm cho động lực dân chủ, văn hóa dân chủ phát huy tác dụng của nó trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong các mối quan hệ con người để phát triển dân chủ thực chất, khắc phục dân chủ hình thức, chống lại những vi phạm dân chủ và quyền làm chủ của người dân, chống quan liêu, lãng phí, tham ô, tham nhũng có hiệu quả rõ rệt nhất. Đây cũng là đường hướng chủ đạo thuộc về tầm nhìn và hành động của Đảng theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XI về dân chủ ở nước ta.
GS,TS. HOÀNG CHÍ BẢO
Hội đồng Lý luận Trung ương
Học viện Quốc phòng quán triệt, vận dụng Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XIII) vào công tác huấn luyện - đào tạo, nghiên cứu khoa học 14/11/2024
Quân khu 4 lãnh đạo xây dựng khu vực phòng thủ theo Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XIII) 04/11/2024
Tư duy của Đảng về phát triển công nghiệp quốc phòng, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới (Tiếp theo và hết) 28/10/2024
Quân đoàn 3 trước yêu cầu xây dựng tinh, gọn, mạnh, tiến lên hiện đại 17/10/2024
Quân khu 3 nâng cao chất lượng công tác hậu cần theo Nghị quyết số 1658-NQ/QUTW 07/10/2024
Tư duy của Đảng về phát triển công nghiệp quốc phòng, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới 26/09/2024
Quân khu 5 xây dựng lực lượng vũ trang vững mạnh theo Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XIII) 12/09/2024
Bộ Tư lệnh Bảo vệ Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh quán triệt, thực hiện chuẩn mực đạo đức của cán bộ, đảng viên 05/09/2024
Tư duy của Đảng về phát triển công nghiệp quốc phòng, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới 26/08/2024
Vận dụng phương châm “dĩ bất biến, ứng vạn biến” trong sự nghiệp quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc* 22/08/2024
Tư duy của Đảng về phát triển công nghiệp quốc phòng, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới (Tiếp theo và hết)
Quân khu 4 lãnh đạo xây dựng khu vực phòng thủ theo Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XIII)
Học viện Quốc phòng quán triệt, vận dụng Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XIII) vào công tác huấn luyện - đào tạo, nghiên cứu khoa học