Chủ Nhật, 24/11/2024, 08:23 (GMT+7)
Đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống Quán triệt, thực hiện nghị quyết
Ngày 28-9-2018, Bộ Chính trị (khóa XII) đã ban hành Nghị quyết 33- NQ/TW về Chiến lược Bảo vệ biên giới quốc gia. Đây là một chiến lược chuyên ngành quan trọng, cụ thể hóa các quan điểm, đường lối quốc phòng, an ninh, thể hiện rõ tư duy, tầm nhìn chiến lược của Đảng về xây dựng, quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trên cơ sở dự báo, đánh giá tình hình thế giới, khu vực và trong nước; bám sát quan điểm, đường lối quốc phòng, an ninh của Đảng, nhất là Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, Chiến lược Quốc phòng Việt Nam, Chiến lược Quân sự Việt Nam, Chiến lược An ninh quốc gia,… cũng như kế thừa kinh nghiệm, truyền thống dựng nước, giữ nước, bảo vệ biên cương, bờ cõi của dân tộc, Chiến lược Bảo vệ biên giới quốc gia đã thể chế hóa đầy đủ, sâu sắc các quan điểm, chủ trương, mục tiêu, nguyên tắc, phương châm, phương thức bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới của Đảng vào thực tiễn xây dựng, quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia trong điều kiện nước ta hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Chiến lược Bảo vệ biên giới quốc gia ra đời là bước phát triển có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, khẳng định ý chí, quyết tâm bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia của Đảng, Nhà nước và nhân dân; cơ sở pháp lý vững chắc để lực lượng vũ trang nhân dân thực hiện tốt vai trò nòng cốt, Bộ đội Biên phòng thực hiện tốt vai trò chuyên trách trong quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia.
Quán triệt, đẩy mạnh thực hiện, đưa Chiến lược Bảo vệ biên giới quốc gia vào cuộc sống là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân. Theo đó, chúng ta cần quán triệt, nắm vững một số nội dung cơ bản sau:
Về đối tác, đối tượng xác định trong Chiến lược
Nhất quán với quan điểm về đối tượng, đối tác của cách mạng Việt Nam đã được xác định trong Chiến lược Bảo vệ Tổ quốc, Chiến lược Bảo vệ biên giới quốc gia khẳng định: “Đối tượng Chiến lược Bảo vệ biên giới quốc gia là bộ phận của đối tượng Chiến lược Bảo vệ Tổ quốc, Chiến lược Quốc phòng Việt Nam”, đồng thời chỉ rõ: “Những ai tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ biên giới Việt Nam, cùng mục đích xây dựng đường biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác, phát triển đều là đối tác. Bất kỳ thế lực nào có âm mưu và hành động xâm phạm chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, xâm phạm tính nguyên trạng của biên giới quốc gia, hệ thống mốc quốc giới, dấu hiệu đường biên giới, cửa khẩu; sử dụng biên giới quốc gia để chống phá sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa đều là đối tượng”. Như vậy, Chiến lược tiếp tục nhất quán khẳng định và cụ thể hóa quan điểm của Đảng về đối tác, đối tượng của cách mạng Việt Nam. Với cách nhìn biện chứng, Đảng ta đã có sự thay đổi nhận thức từ tư duy bạn - thù sang tư duy “đối tác, đối tượng” để bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc, xây dựng, quản lý và bảo vệ vững chắc chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia.
Với những dự báo về đối tượng, Đảng ta không chỉ tiếp tục quán triệt quan điểm nhất quán: đối tượng xâm phạm chủ quyền biên giới quốc gia không chỉ là lực lượng gây chiến tranh, bạo loạn lật đổ, mà còn chỉ rõ kẻ hiếu chiến, nước có tham vọng lãnh thổ,… xâm phạm chủ quyền, lợi ích quốc gia - dân tộc, bằng những phương thức vũ trang hoặc phi vũ trang đều là đối tượng. Đây là tư duy mới của Đảng ta, chỉ rõ tính khoa học, toàn diện trong đánh giá đối tượng, bao gồm đối tượng đấu tranh truyền thống và phi truyền thống, giúp cho các lực lượng bảo vệ biên giới quốc gia nêu cao tinh thần cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu đập tan mọi âm mưu của các thế lực phản động muốn xâm hại lợi ích quốc gia - dân tộc.
Từ phân tích môi trường chiến lược, đặc điểm tình hình thế giới, khu vực, trong nước và trên cơ sở dự báo đối tượng đấu tranh bảo vệ biên giới quốc gia, Chiến lược đã đưa ra những dự báo cụ thể về các tình huống xâm phạm biên giới, xâm hại lợi ích quốc gia - dân tộc ở biên giới đất liền, trên biển, đảo của Tổ quốc. Chiến lược xác định: (1) các tổ chức phản động trong và ngoài nước, tình báo, gián điệp, khủng bố có âm mưu, hành động phá hoại mốc quốc giới, công trình biên giới, xâm phạm an ninh biên giới, gây mất trật tự, an toàn xã hội ở khu vực biên giới; (2) các thế lực thù địch, tổ chức phản động trong và ngoài nước sử dụng không gian biên giới để tiến hành các hoạt động chống phá đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; gây mất ổn định, bạo loạn chính trị, xung đột sắc tộc, ly khai ở khu vực biên giới; (3) các thế lực nước ngoài, tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước có âm mưu, hành động xâm hại lợi ích quốc gia - dân tộc; (4) các tổ chức trong và ngoài nước có âm mưu, hành động gây mất an ninh phi truyền thống ở khu vực biên giới Việt Nam; (5) các thế lực hiếu chiến và nước lớn có tham vọng lãnh thổ, đồng minh và tay sai có âm mưu, hành động xâm lấn biên giới, gây xung đột vũ trang, chiến tranh xâm chiếm biên giới trên đất liền, trên biển, đảo, v.v. Các tình huống có thể xảy ra lần lượt, từ mức độ thấp phát triển lên mức độ cao hơn hoặc xảy ra đan xen, đồng thời một số tình huống ở khu vực biên giới trên đất liền và trên biển, đảo. Nếu không được ngăn chặn, đối phó kịp thời, hiệu quả, tình huống ở khu vực biên giới có thể phát triển thành tình huống trên toàn lãnh thổ, biển, đảo; thành chiến tranh xâm lược, đe dọa hòa bình, ổn định chính trị, độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đây là sự đánh giá hết sức khách quan, toàn diện, có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc, giúp cho lực lượng vũ trang và nhân dân trên vùng biên giới Tổ quốc, đặc biệt là lực lượng chuyên trách nòng cốt - Bộ đội Biên phòng -nêu cao tinh thần cảnh giác, sẵn sàng đối phó thắng lợi với các tình huống có thể xảy ra.
Mục tiêu của Chiến lược
Trước bối cảnh đất nước hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, tình hình thế giới, khu vực đang diễn biến phức tạp, khó lường, nhất là trong giải quyết các tranh chấp về chủ quyền, lãnh thổ, biên giới và thực tiễn tình hình mọi mặt của đất nước, Chiến lược Bảo vệ biên giới quốc gia xác định rõ mục tiêu, gồm mục tiêu chung và các mục tiêu cụ thể. Theo đó, mục tiêu chung là: “… Xây dựng biên giới quốc gia hòa bình, hữu nghị, ổn định, hợp tác; bảo vệ, phòng thủ vững chắc biên giới quốc gia; góp phần phát triển kinh tế - xã hội gắn với củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh, đối ngoại ở khu vực biên giới và cả nước”. Mục tiêu cụ thể: “Phòng ngừa, ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu, hành động xâm phạm biên giới quốc gia, phá hoại mốc quốc giới, cửa khẩu, công trình biên giới trên đất liền, trên biển, đảo…”; “Mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, đối ngoại quốc phòng, đối ngoại biên phòng với lực lượng bảo vệ biên giới của các nước láng giềng và lực lượng chức năng của các nước có liên quan; hoàn thành công tác phân giới cắm mốc biên giới trên đất liền Việt Nam - Cam-pu-chia; đẩy nhanh tiến trình giải quyết tranh chấp, phân định biên giới trên biển với các nước láng giềng; quản lý, bảo vệ đường biên giới hòa bình, ổn định, hữu nghị, hợp tác và phát triển”. Với việc xác định đầy đủ nội hàm của mục tiêu chung, mục tiêu cụ thể, Chiến lược tiếp tục khẳng định những mục tiêu đó là cơ sở, tiền đề để Đảng, Nhà nước và các ban, bộ, ngành, đoàn thể trong hệ thống chính trị phấn đấu tổ chức thực hiện. Muốn xây dựng, quản lý, bảo vệ vững chắc chủ quyền biên giới quốc gia, phải tiếp tục đẩy mạnh việc quán triệt, kiên định nguyên tắc “dĩ bất biến, ứng vạn biến” trong giải quyết các bất đồng, tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, biên giới trên đất liền, biển, đảo của Tổ quốc bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở tôn trọng luật pháp, thông lệ quốc tế; đồng thời, tăng cường mở rộng quan hệ hợp tác trên các bình diện, cả song phương và đa phương với các đối tác, nhất là với các nước láng giềng, đối tác chiến lược, bạn bè truyền thống, góp phần tạo môi trường hòa bình, ổn định, hữu nghị, hợp tác cùng phát triển, văn minh, hiện đại trong khu vực và trên toàn thế giới.
Về quan điểm chỉ đạo
Xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin: “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta luôn coi nhân dân là cội nguồn sức mạnh vô tận, là yếu tố quyết định sự thành bại của cách mạng, “nước lấy dân làm gốc”. Đảng ta từng chỉ rõ: quản lý, bảo vệ vững chắc chủ quyền an ninh biên giới quốc gia là sự nghiệp của toàn dân, nhiệm vụ chung của tất cả các ngành, các cấp trong hệ thống chính trị và các lực lượng vũ trang nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Theo đó, mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc hiện nay đã có nhiều nội dung mới được bổ sung, phát triển. Bảo vệ Tổ quốc không chỉ phát huy mạnh mẽ sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, mà còn phải bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ công cuộc đổi mới, bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội…; chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch; ngăn chặn, phản bác những thông tin và luận điệu sai trái. Vì thế, Chiến lược đã xác định một hệ thống các quan điểm chỉ đạo mang tính nguyên tắc, bất luận trong mọi hoàn cảnh, điều kiện đều phải xây dựng, quản lý, bảo vệ vững chắc chủ quyền biên giới quốc gia.
Một trong những quan điểm chỉ đạo có tính chất đặc biệt quan trọng, nhân tố quyết định đến cùng thắng lợi của sự nghiệp bảo vệ biên giới quốc gia mà Chiến lược xác định là: tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc. Với quan điểm này, Chiến lược đã nêu rõ sự cần thiết phải tăng cường, củng cố, xây dựng các tổ chức cơ sở đảng, hệ thống chính trị ở các địa phương, nhất là trên các vùng biên giới trong sạch, vững mạnh. Tập trung xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc, làm cơ sở nền tảng để xây dựng “thế trận biên phòng toàn dân”, phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị và toàn dân trong quản lý, bảo vệ vững chắc chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia, góp phần giữ vững ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Thường xuyên chăm lo củng cố niềm tin của nhân dân, nhất là nơi có đông đồng bào dân tộc thiểu số, tôn giáo sinh sống; chủ động nắm chắc địa bàn, dân cư, đời sống của nhân dân để tham mưu, đề xuất, giúp địa phương xây dựng quy hoạch, kế hoạch gắn phát triển kinh tế - xã hội với củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh. Thực hiện tốt phương châm: tích cực phòng ngừa, chủ động ngăn chặn, xử lý khôn khéo các tình huống, giải quyết nhanh gọn, thu hẹp những bất đồng, hạn chế sự việc gây nguy hại đến quốc phòng, an ninh, không để các thế lực thù địch bên trong, bên ngoài câu kết thực hiện chiến lược “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ.
Về nguyên tắc:
Với quan điểm: “Quản lý, bảo vệ vững chắc chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của cả hệ thống chính trị và cả nước” và kiên định nguyên tắc Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt, Nhà nước thống nhất quản lý, điều hành nhiệm vụ, hoạt động quốc phòng, an ninh nói chung, bảo vệ biên giới quốc gia nói riêng, Chiến lược một lần nữa tiếp tục khẳng định phải giữ vững các nguyên tắc: độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường; không sử dụng vũ lực hoặc đe doạ sử dụng vũ lực trong các quan hệ quốc tế; không liên minh, liên kết với nước này để chống lại nước kia; giải quyết mọi mâu thuẫn, bất đồng, tranh chấp chủ quyền, lãnh thổ, biên giới bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở pháp luật Việt Nam, luật pháp quốc tế và các điều ước quốc tế về biên giới quốc gia mà Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập. Với việc xác định các nguyên tắc này, Chiến lược đã kế thừa sâu sắc truyền thống yêu chuộng hòa bình, giữ vững ý chí độc lập, tự do của dân tộc qua lịch sử đấu tranh chống các thế lực ngoại xâm để giành và bảo vệ độc lập, tự do cho Tổ quốc; đồng thời, còn thể chế hóa, cụ thể những nội dung cơ bản đường lối chính trị của Đảng, Luật Quốc phòng, Chiến lược Quốc phòng, Chiến lược An ninh. Qua đó, tiếp tục khẳng định quan điểm nhất quán, xuyên suốt của Đảng, Nhà nước ta về mục đích, tính chất của quốc phòng Việt Nam là: hòa bình, tự vệ, chính nghĩa, vì một nền hòa bình, phát triển thịnh vượng của Việt Nam, khu vực và thế giới. Đây là một trong những nội dung rất quan trọng của Chiến lược để định hướng tư tưởng, nhận thức, xác định phương thức, nhiệm vụ, giải pháp về xây dựng, quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia của các cấp, các ngành trong hệ thống chính trị. Đồng thời, là cơ sở để đấu tranh với các quan điểm sai trái, xuyên tạc, kích động của các thế lực thù địch trong việc quản lý, bảo vệ chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, biên giới, biển đảo của Tổ quốc.
Nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, hiệu lực, hiệu quả của các bộ, ngành trong hệ thống chính trị đối với sự nghiệp xây dựng, quản lý, bảo vệ vững chắc chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia của Tổ quốc, ngoài những nội dung cơ bản nêu trên, Chiến lược còn đề cập một hệ thống các nhiệm vụ, giải pháp tổ chức thực hiện phù hợp với thực tiễn. Những nhiệm vụ, giải pháp này, có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc củng cố, phát huy tiềm lực, xây dựng lực lượng chất lượng cao để tạo ra sức mạnh tổng hợp nhằm quản lý và bảo vệ vững chắc biên giới quốc gia trong tình hình mới.
Chiến lược Bảo vệ biên giới quốc gia ra đời đã thể chế hóa sâu sắc các quan điểm, chủ trương, tư duy mới về quốc phòng, an ninh của Đảng; cơ sở pháp lý quan trọng để phát huy sức mạnh tổng hợp trong quản lý, bảo vệ vững chắc chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia. Nhận thức rõ điều đó, quán triệt, triển khai tổ chức thực hiện nghiêm túc, đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp của Chiến lược là nghĩa vụ, trách nhiệm chính trị của mọi công dân, tổ chức, đoàn thể, của cả hệ thống chính trị trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Thiếu tướng, TS. ĐẶNG QUANG MINH, Phụ trách Viện trưởng Viện Chiến lược Quốc phòng
Nghị quyết 33- NQ/TW,Chiến lược Bảo vệ biên giới
Học viện Quốc phòng quán triệt, vận dụng Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XIII) vào công tác huấn luyện - đào tạo, nghiên cứu khoa học 14/11/2024
Quân khu 4 lãnh đạo xây dựng khu vực phòng thủ theo Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XIII) 04/11/2024
Tư duy của Đảng về phát triển công nghiệp quốc phòng, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới (Tiếp theo và hết) 28/10/2024
Quân đoàn 3 trước yêu cầu xây dựng tinh, gọn, mạnh, tiến lên hiện đại 17/10/2024
Quân khu 3 nâng cao chất lượng công tác hậu cần theo Nghị quyết số 1658-NQ/QUTW 07/10/2024
Tư duy của Đảng về phát triển công nghiệp quốc phòng, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới 26/09/2024
Quân khu 5 xây dựng lực lượng vũ trang vững mạnh theo Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XIII) 12/09/2024
Bộ Tư lệnh Bảo vệ Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh quán triệt, thực hiện chuẩn mực đạo đức của cán bộ, đảng viên 05/09/2024
Tư duy của Đảng về phát triển công nghiệp quốc phòng, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới 26/08/2024
Vận dụng phương châm “dĩ bất biến, ứng vạn biến” trong sự nghiệp quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc* 22/08/2024
Tư duy của Đảng về phát triển công nghiệp quốc phòng, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới (Tiếp theo và hết)
Quân khu 4 lãnh đạo xây dựng khu vực phòng thủ theo Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XIII)
Học viện Quốc phòng quán triệt, vận dụng Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XIII) vào công tác huấn luyện - đào tạo, nghiên cứu khoa học