Nghiên cứu - Tìm hiểu Nghiên cứu - Trao đổi

QPTD -Thứ Hai, 30/03/2015, 09:51 (GMT+7)
Tổ chức và hoạt động của dân quân tự vệ - sự phát triển sáng tạo nghệ thuật toàn dân đánh giặc thời đại Hồ Chí Minh

Nét tiêu biểu và đặc sắc nhất trong truyền thống quân sự Việt Nam là toàn dân đánh giặc. Công cuộc lao động, chiến đấu trước thiên tai khắc nghiệt và các thế lực xâm lược đã sớm thu hút sự tham gia tự nguyện cố kết của tất cả các thành viên cộng đồng người Việt. Khi nước có giặc không chỉ có quân đội của vua mà cả dân tộc, cả nước đứng lên chiến đấu. Mỗi làng, mỗi chạ, mỗi cụm dân cư là một tổ chức chặt chẽ, trực tiếp ngăn chặn quân xâm lược để bảo vệ xóm làng, quê hương, đất nước.

Phương thức tổ chức lực lượng quân sự gồm nhiều thứ quân và lập sổ hộ tịch, kiểm kê nhân đinh để nhà nước định quân hạng khi cần tuyển quân và gọi nhân đinh nhập ngũ "đó được đặt thành lệ từ các thời Lý, Trần". Quân Trung ương chủ yếu là Cấm quân đóng ở kinh thành bảo vệ vua và triều đình, thời chiến là lực lượng nòng cốt, cơ động, chiến đấu. Các loại quân khác trấn giữ ở các vùng, chủ yếu chiến đấu bảo vệ địa phương nhưng khi cần nhà nước có thể điều động kết hợp với quân triều đình thực hành tác chiến. Tổ chức quân sự như vậy, sẽ bảo đảm vừa có lực lượng cơ động, vừa có lực lượng tại chỗ; vừa bảo vệ được kinh đô, vừa canh giữ được các địa phương, nhất là vùng trọng yếu. Các thành phần vũ trang "không độc lập riêng lẻ mà tạo thành một hệ thống tổ chức quân sự thống nhất, tồn tại và phát huy tác dụng trong một chỉnh thể từ trung ương đến cơ sở".

Kế thừa và phát huy truyền thống dựng nước và giữ nước của dân tộc, vận dụng đúng đắn, sáng tạo nguyên lý chủ nghĩa Mác – Lê-nin về chiến tranh cách mạng vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể, Đảng ta đề ra đường lối, quan điểm đúng đắn về xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng của công nông gồm nhiều thứ quân, nhiều loại hình lực lượng, đồng thời đề ra chủ trương "lập quân đội công nông", "vũ trang cho công nông", "tổ chức đội tự vệ công nông" để đấu tranh với kẻ thù. Thấm nhuần quan điểm "cần phải động viên toàn dân, vũ trang toàn dân", Đảng ta đã hết sức coi trọng xây dựng và phát huy vai trò to lớn của ba thứ quân phù hợp với yêu cầu của chiến tranh nhân dân và quốc phòng toàn dân. Đối với lực lượng dân quân tự vệ (DQTV), Đảng ta xác định đây là lực lượng quần chúng đông đảo ở cơ sở, không thoát ly sản xuất, vừa lao động sản xuất, vừa sẵn sàng chiến đấu, kết hợp với lực lượng an ninh cơ sở giữ gìn trật tự xã hội, an ninh chính trị tại địa phương; là lực lượng chiến lược của chiến tranh nhân dân, làm nòng cốt cho phong trào toàn dân đánh giặc ở địa phương, cơ sở.

"Nghị quyết về Đội tự vệ" (tháng 3 năm 1935) đã nêu vấn đề thành lập các đội tự vệ công nông thường trực đặt dưới quyền chỉ huy thống nhất của Trung ương, Quân ủy của Đảng Cộng sản, lấy sản nghiệp và làng hay xã là cơ sở tổ chức. Nhiệm vụ của công nông cách mạng tự vệ đội là: ủng hộ quần chúng hàng ngày, ủng hộ quần chúng trong các cuộc đấu tranh, ủng hộ các cơ quan cách mạng và chiến sĩ cách mạng, huấn luyện quân sự cho chiến sĩ cách mạng, chống quân thù của giai cấp công nhân và vận động cách mạng phát triển thắng lợi. Lần đầu tiên những nguyên tắc về xây dựng chính trị cũng như quân sự của lực lượng nửa vũ trang cách mạng của Đảng được đề ra cơ bản và tương đối toàn diện, thể hiện quan điểm giai cấp, quan điểm quần chúng và quan điểm thực tiễn của Đảng.

Các đội tự vệ công nông xuất hiện trong cao trào cách mạng 1930 - 1931, được trang bị gậy, búa, giáo mác, liềm hái đã bảo vệ phong trào quần chúng, bảo vệ chính quyền cách mạng. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 8 (tháng 5 năm 1941) đã vạch ra phương hướng và những biện pháp tập hợp các lực lượng quần chúng trong Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh). Đó là: những người hăng hái, trung thành hơn trong các đoàn thể cứu quốc để tổ chức ra tự vệ cứu quốc và tiểu tổ dân quân. Tự vệ cứu quốc là tổ chức để bảo vệ các tổ chức quần chúng trong khi đấu tranh và bảo vệ cách mạng, còn tiểu tổ dân quân là một tổ chức cao hơn tự vệ đội và thấp hơn dân quân chính thức. Những năm 1939 - 1945, lực lượng tự vệ được xây dựng trên khắp cả nước, nhất là ở Bắc Bộ, Trung Bộ... Phong trào đấu tranh của quần chúng từ đấu tranh chính trị đã từng bước tiến lên đấu tranh vũ trang, kết hợp chặt chẽ đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang. Các đội tự vệ chiến đấu và tự vệ phối hợp với các đơn vị Cứu quốc quân, Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân làm lực lượng nòng cốt cho quần chúng thực hiện vũ trang khởi nghĩa từng phần, tiến hành chiến tranh du kích cục bộ, xây dựng và mở rộng các căn cứ địa Việt Bắc, Đông Bắc, Ninh Bình, Thanh Hóa, Ba Tơ...

Chấp hành Nghị quyết của Hội nghị Quân sự Bắc Kỳ (tháng 4 năm 1945), lực lượng tự vệ và dân quân được phát triển nhanh chóng trở thành lực lượng chủ yếu bảo vệ Đảng, bảo vệ quần chúng; hỗ trợ đắc lực cho đấu tranh chính trị của nhân dân; làm nòng cốt cho chiến tranh du kích, cùng với quần chúng nhân dân và quân chủ lực tiến hành khởi nghĩa từng phần, lập nên chính quyền của nhân dân. Trong khởi nghĩa tháng Tám năm 1945, lực lượng tự vệ và tự vệ chiến đấu Trung, Nam, Bắc đã đóng vai trò xung kích, cùng Việt Nam Giải phóng quân, kết hợp đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính trị của hàng triệu quần chúng vùng lên dùng bạo lực cách mạng giành chính quyền về tay nhân dân. Từ chỗ là lực lượng xung kích cùng nhân dân nổi dậy giành chính quyền, lực lượng tự vệ trở thành công cụ chuyên chính chủ yếu bảo vệ Đảng, bảo vệ thành quả cách mạng và chính quyền cách mạng non trẻ. Dân quân, du kích Nam Bộ đã phối hợp với bộ đội chủ lực anh dũng chiến đấu, diệt ác, trừ gian,... DQTV miền Bắc đã phối hợp với công an nhân dân và Vệ quốc đoàn trừng trị bọn phản động nội địa, chuẩn bị mọi mặt cho cuộc kháng chiến trường kỳ. Lực lượng DQTV đã trưởng thành, tham gia bảo vệ chính quyền và tạo cơ sở thuận lợi để các đơn vị giải phóng quân phát triển thành quân đội chính quy ngày càng lớn mạnh.

Thực hiện chủ trương quân sự hóa toàn dân, vũ trang hóa toàn dân của Đảng, đặc biệt là chỉnh đốn đội tự vệ chiến đấu và tiểu tổ dân quân, DQTV được phát triển rộng khắp ở các làng xã, đường phố trong cả nước. Số lượng DQTV phát triển nhanh chóng từ khoảng chục vạn người trong Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 tăng lên khoảng 1 triệu người đầu năm 1946, có quy mô rộng khắp cả nước, tạo thành một mạng lưới giăng khắp núi rừng, đồng bằng, đô thị. Từ chỗ là lực lượng vũ trang quần chúng do Mặt trận Việt Minh chỉ đạo, dân quân, du kích và tự vệ đã từng bước được thống nhất về tổ chức, là một bộ phận trong lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam do các xã đội, huyện đội, tỉnh đội chỉ đạo, chỉ huy và đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của cấp ủy đảng và sự chỉ đạo của chính quyền các cấp.

Phương thức tác chiến du kích là cách đánh giặc của dân tộc bị áp bức chống đế quốc. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, chiến tranh du kích xuất hiện trước và trở thành cơ sở của chiến tranh chính quy, cùng với chiến tranh chính quy giành những thắng lợi to lớn trên các chiến trường. Sự phát triển của chiến tranh nhân dân là thực tiễn chứng minh địa vị chiến lược của chiến tranh du kích và lực lượng DQTV. DQTV và dân quân, du kích miền Nam ngày càng phát triển lớn mạnh, phối hợp với bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương tiến hành chiến tranh du kích và chiến tranh chính quy lần lượt đánh thắng các chiến lược của đế quốc Mỹ. Những năm 1959-1960, các đội tự vệ và du kích đã hỗ trợ đắc lực cho phong trào đồng khởi của nhân dân miền Nam, góp phần làm thất bại âm mưu của đế quốc Mỹ thống trị miền Nam bằng các thủ đoạn của chủ nghĩa thực dân kiểu mới. Trong phong trào đồng khởi, các đội tự vệ và du kích với ý chí bất khuất và lòng yêu nước căm thù giặc đã anh dũng chiến đấu giành những thắng lợi to lớn, tạo điều kiện để phát triển cuộc chiến tranh nhân dân ở miền Nam. Hình thức chiến tranh du kích phát triển rộng khắp, hỗ trợ cho quần chúng đấu tranh chống địch dồn dân lập "khu trù mật", nổi dậy phá "ấp chiến lược", góp phần đánh bại các chiến thuật "Trực thăng vận", “Thiết xa vận", các biện pháp chiến lược của Mỹ và Quân đội Việt Nam cộng hòa...; thực hiện khởi nghĩa từng phần, lập ra các vùng giải phóng, đẩy quân đội và chính quyền Sài Gòn đứng trước nguy cơ sụp đổ. Vừa đấu tranh đòi hiệp thương tổng tuyển cử, vừa bí mật vũ trang tự vệ, dân quân, du kích, nhân dân miền Nam đã sáng tạo ra nhiều hình thức đấu tranh vũ trang linh hoạt, như: lập đội chống cướp, hội từ thiện, lực lượng giáo phái, hội săn bắn, nhóm bảo vệ dân tộc,… ban ngày sống hợp pháp, làm ăn bình thường, ban đêm độc lập hoặc phối hợp với đội công tác diệt ác, trừ gian.

Khi quân Mỹ ào ạt tiến vào miền Nam, các lực lượng vũ trang của ta đã nhanh chóng triển khai chiếm lĩnh trận địa, xây dựng thế trận vững chắc từ rừng núi đến đồng bằng, từ nông thôn đến sát đô thị. Dân quân, du kích miền Nam đã phối hợp chặt chẽ với lực lượng chính trị, bộ đội địa phương, bộ đội chủ lực phá vỡ hệ thống kìm kẹp, phố ấp chiến lược, mở mảng giành dân, chống càn quét, đánh hậu cứ, đánh giao thông,... góp phần đánh bại kế hoạch bình định nông thôn của địch.

Trong những năm 1965-1973, DQTV miền Bắc đã phát triển vượt bậc (đạt 12% dân số miền Bắc). Biên chế tổ chức phổ biến là trung, đại đội, có nơi thành lập tiểu đoàn, trung đoàn, sư đoàn; được trang bị các loại vũ khí phù hợp với nhiệm vụ chiến đấu của từng lực lượng. DQTV giai đoạn này đã phát triển cao độ vị trí chiến lược của mình phối hợp với lực lượng công an nhân dân giữ vững trật tự trị an, lập nhiều thành tích trong công tác, là nòng cốt trong sản xuất và chiến đấu, thực hiện "tay cày, tay súng, tay búa, tay súng". Với tinh thần gan dạ, thông minh, khả năng tiếp thu khoa học kỹ thuật, chiến thuật quân sự lực lượng DQTV đã góp phần tăng cường sức mạnh của lưới lửa phòng không ba thứ quân với nhiều tầng, nhiều hướng, vừa có chiều rộng, vừa có chiều sâu; góp phần bắn rơi hơn 4 ngàn máy bay Mỹ, tự lực bảo vệ một số trọng điểm. Đặc biệt, nhiều đơn vị pháo binh bờ biển của DQTV từ Quân khu 4 trở ra có khả năng độc lập và phối hợp chiến đấu với các lực lượng khác đã bắn chìm, bắn cháy một số tàu biệt kích, tàu chiến địch, góp phần quan trọng cùng quân dân miền Bắc đánh bại chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của đế quốc Mỹ, bảo vệ vững chắc hậu phương lớn miền Bắc, chi viện đắc lực cho tiền tuyến lớn miền Nam.

Quá trình chiến đấu và công tác, được giáo dục và rèn luyện, DQTV không chỉ là lực lượng hiệp đồng chiến đấu đắc lực, có hiệu quả với các lực lượng vũ trang khác mà còn trở thành nguồn dự trữ nhân lực vô tận và quý giá, bổ sung cho bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương, những chiến sĩ và cán bộ có phẩm chất tốt, giàu kinh nghiệm chiến đấu. DQTV còn là lực lượng sửa chữa và làm mới hàng vạn km đường giao thông, hàng chục triệu hầm hào chiến đấu, tham gia thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến, phục vụ trực tiếp chiến đấu và chiến đấu trên khắp chiến trường. Hiện nay, DQTV vẫn là lực lượng chiến lược hùng hậu và rộng khắp, có những đóng góp to lớn cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Dân quân tự vệ và du kích xứng đáng với lời khen của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Là lực lượng của toàn dân tộc, là một lực lượng vô địch, là một bức tường sắt của Tổ quốc. Vô luận địch nhân hung bạo thế nào, hễ đụng vào lực lượng đó, bức từng đó, thì địch nào cũng phải tan rã"1.
Thiếu tướng, PGS, TS. VŨ QUANG ĐẠO, Nguyên Viện trưởng Viện Lịch sử Quân sự

____________

[1] - Hồ Chí Minh – Toàn tập, Tập 5, Nxb CTQG, H. 2001, tr.132.

Ý kiến bạn đọc (0)

Giá trị nhân văn Hồ Chí Minh - nền tảng của sự phát triển xã hội
Nhân kỷ niệm 125 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, Phó giáo sư, Tiến sỹ Phạm Ngọc Anh, Viện Hồ Chí Minh, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh có bài viết "Giá trị nhân văn Hồ Chí Minh - nền tảng của sự phát triển xã hội" khẳng định, với bản chất và đặc trưng phổ quát, giá trị cơ bản của tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh là nền tảng phát triển xã hội, kiến tạo hệ thống quan hệ xã hội mang đậm bản chất người và giá trị làm người chân chính.