Nghiên cứu - Tìm hiểu Nghiên cứu - Trao đổi

QPTD -Thứ Ba, 21/06/2016, 07:00 (GMT+7)
Một số vấn đề về tác chiến phòng thủ quân khu trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc

Mỗi quân khu có điều kiện địa lý, kinh tế, chính trị,... khác nhau, nhưng có sự giống nhau về hoạt động tác chiến phòng thủ là đều vận dụng tổng hợp các hình thức, biện pháp đấu tranh (quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hôi,…), trong đó, đấu tranh quân sự là chủ yếu, nhằm giữ vững khu vực phòng thủ, góp phần bảo vệ Tổ quốc.

Trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc (nếu xảy ra), địch có thể sẽ tiến hành hoạt động chia cắt chiến lược, đánh chiếm một số địa bàn (khu vực) quan trọng làm bàn đạp tiến công, mở rộng quy mô, tiến tới hoàn tất mục đích chiến tranh xâm lược. Trước tiên, chúng tổ chức tiến công bằng hỏa lực đường không nhằm hủy diệt một số mục tiêu trọng yếu; phá hủy cơ sở vật chất, kỹ thuật và tiềm lực quốc phòng; phá vỡ hệ thống phòng thủ, phòng ngự, tiêu diệt sinh lực, làm suy yếu khả năng đối phó của ta. Tiếp theo, chúng thực hiện tiến công đường bộ, đổ bộ đường không, đổ bộ đường biển (khu vực ven biển) kết hợp với lực lượng phản động, nhanh chóng đánh chiếm trụ sở chính quyền, đài phát thanh, truyền hình,... lật đổ chính quyền hợp pháp, lập chính quyền phản động.

Để đối phó với các tình huống trên, quân khu phải phát huy thế trận khu vực phòng thủ, thế trận quốc phòng toàn dân được chuẩn bị từ thời bình, nhanh chóng chuyển thành thế trận chiến tranh nhân dân; phòng tránh, đánh trả đòn tiến công hoả lực của địch, bảo toàn lực lượng; tổ chức lực lượng đánh địch rộng khắp, ngăn chặn, tiêu hao, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, làm cho chúng sa lầy, chuyển vào phòng thủ, phòng ngự, tạo điều kiện cho lực lượng cơ động của quân khu, của Bộ tiêu diệt. Đồng thời, dẹp bạo loạn lật đổ, giữ vững các khu vực, mục tiêu chủ yếu.

Thực tế nghiên cứu các cuộc chiến tranh gần đây trên thế giới và những dự báo phát triển chiến tranh tương lai cho thấy, đối phương thường sử dụng hai phương thức cơ bản là truyền thống và phi truyền thống. Phương thức truyền thống: kết hợp chặt chẽ đấu tranh quân sự, chính trị, kinh tế, ngoại giao. Phương thức phi truyền thống: chiến tranh thông tin, chiến tranh mạng, tạo dư luận xấu đối với chính quyền hiện tại, hòng lôi kéo nhân dân, nhất là tầng lớp thanh niên - lực lượng đông đảo trong xã hội, v.v. Từ thực tế đó, chúng tôi xin trao đổi một số vấn đề về tác chiến phòng thủ quân khu trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc để cùng nghiên cứu.

Thứ nhất, về nhiệm vụ tác chiến phòng thủ quân khu

Qua nghiên cứu cho thấy, lực lượng vũ trang quân khu có một số nhiệm vụ chủ yếu sau: (1) Thường xuyên nắm chắc tình hình, kịp thời chuyển quân khu sang thời chiến; điều chỉnh phương án, kế hoạch tác chiến phòng thủ; bổ sung, phát triển lực lượng; triển khai hoàn chỉnh các công trình phòng thủ; bố trí lực lượng, thiết lập thế trận, đáp ứng tình huống mới. Nhiệm vụ này chủ yếu được tiến hành trong giai đoạn chuẩn bị trực tiếp. (2) Phòng, chống địch bao vây, phong tỏa đường biển, gây bạo loạn vũ trang. Lực lượng vũ trang quân khu nhanh chóng tiêu diệt lực lượng phản ứng nhanh, phản động nội địa, dập tắt bạo loạn lật đổ. (3) Đánh địch tiến công hỏa lực, hạn chế tổn thất, bảo vệ tiềm lực chính trị, quân sự, kinh tế, bảo toàn lực lượng. (4) Đánh địch tiến công đường bộ, đường biển, đường không, nhằm ngăn chặn, sát thương, tiêu hao, tiêu diệt địch, giữ vững các khu vực phòng thủ chủ yếu, then chốt, bảo vệ mục tiêu trọng yếu. Đây là nhiệm vụ quan trọng nhất, xuyên suốt quá trình tác chiến. (5) Vừa chiến đấu, vừa bảo vệ, duy trì sự ổn định mọi mặt trên địa bàn, vừa xây dựng, củng cố lực lượng để chiến đấu lâu dài. (6) Sẵn sàng phối hợp với lực lượng cơ động của Bộ, tiến hành các chiến dịch phản công, tiến công, tiêu diệt lớn quân địch, tạo điều kiện thuận lợi cho các lực lượng, các hướng chiến lược khác. Các nhiệm vụ trên có quan hệ chặt chẽ, tác động thúc đẩy hoạt động tác chiến phòng thủ quân khu phát triển. Những hoạt động này, có thể tiến hành lần lượt hoặc đồng thời.

Thứ hai, về xây dựng thế trận tác chiến phòng thủ quân khu

Trên cơ sở các khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố) đ­ược chuẩn bị từ thời bình, thế trận phòng thủ quân khu phải bảo đảm “vững chắc, liên hoàn, hiểm hóc, linh hoạt, có chiều sâu”; đánh địch nhiều hư­ớng, nhiều khu vực, cả phía trước, phía sau, căng kéo, chia cắt, kìm giữ, không cho địch phát triển tiến công. Chiến tranh luôn vận động, phát triển theo ý đồ của cả hai bên tham chiến, nên thế trận ban đầu sẽ không còn phù hợp. Vì thế, quân khu cần phải chủ động thiết lập thế trận phòng thủ để giành và giữ quyền chủ động chiến trường. Trước hết, tập trung xây dựng thế trận chính trị. Bởi vì, các thế lực thù địch, phản động trong nước, ngoài nước và các phần tử cơ hội chính trị tăng cường hoạt động chống phá Đảng, chế độ và chính quyền địa phương, làm giảm lòng tin của nhân dân với Đảng, chính quyền, phá khối đại đoàn kết, làm cho quân và dân ta mơ hồ, mất sức chiến đấu. Theo đó, các cấp, các ngành, các đoàn thể phải thực hiện tốt cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”. Xây dựng các tổ chức trong hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, đủ khả năng hoàn thành nhiệm vụ theo chức trách; trong đó, chú trọng xây dựng tổ chức đảng, xây dựng lòng tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước; xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân. Hai là, xây dựng thế trận kinh tế đủ mạnh, bảo đảm tự cung, tự cấp, chiến đấu lâu dài khi bị chia cắt chiến lược. Quân khu tiếp tục duy trì nền kinh tế địa phương phát triển đồng đều, vững chắc theo từng khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố), đáp ứng một phần cơ sở vật chất hậu cần, kỹ thuật và một số nhu cầu thiết yếu phục vụ cuộc sống, sinh hoạt của quân và dân trong địa bàn. Đồng thời, triển khai kế hoạch bảo vệ sản xuất; vận chuyển máy móc, vật tư về vị trí mới an toàn, nhằm duy trì sản xuất liên tục, v.v. Ba là, khẩn trương chuyển hóa, hoàn thiện thế trận quân sự, đáp ứng yêu cầu: vững chắc, linh hoạt, rộng khắp, bao vây, chia cắt, v.v. Xây dựng thế trận cài xen với địch để giữ đất, giữ dân, nắm, bám và đánh địch mọi lúc, mọi nơi; phải bảo đảm cho lực lượng vũ trang quân khu phát huy sở trường đánh địch rộng khắp, ngăn chặn, làm chậm tốc độ tiến công, hạn chế tới mức thấp nhất sức cơ động và khả năng của vũ khí, trang bị, kỹ thuật của đối phương; buộc chúng phải co cụm, chuyển vào phòng ngự, sa lầy trong địa bàn, làm thất bại chiến lược “đánh nhanh, giải quyết nhanh”. Cùng với đó, quân khu đẩy nhanh tiến độ củng cố hệ thống phòng thủ, trong đó ưu tiên hướng, khu vực phòng thủ chủ yếu (biên giới, biển, đảo). Xây dựng hệ thống vật cản mặt đất, trên sông, trên biển, kết hợp vật cản nổ với không nổ. Tổ chức hỏa lực pháo binh, phòng không, chống tăng nhiều tầng, nhiều hướng, phát huy tối đa từng loại vũ khí để có thể đánh tập trung, phân tán, bảo đảm bí mật, bất ngờ.

Thứ ba, về tổ chức, sử dụng và bố trí lực lượng tác chiến phòng thủ

Tổ chức, sử dụng và bố trí lực lượng tác chiến quân khu phải phát huy được sức mạnh tổng hợp, bảo đảm đánh địch rộng khắp, tập trung vào hướng, khu vực phòng thủ chủ yếu, các chiến dịch và trận đánh quan trọng; vừa có lực lượng phòng thủ, phòng ngự, vừa có lực lượng cơ động, bảo đảm tác chiến liên tục, dài ngày. Lực lượng tác chiến phòng thủ quân khu có thể tổ chức thành hai bộ phận: lực lượng phòng thủ của tỉnh (thành phố) và lực lượng chủ lực của quân khu. Căn cứ vào đặc điểm, tình hình và nhiệm vụ trên giao, quân khu tổ chức, sử dụng và bố trí lực lượng hợp lý ở từng hướng, khu vực. Lực lượng phòng thủ tỉnh (thành phố) do các khu vực phòng thủ tổ chức, bố trí theo kế hoạch tác chiến. Riêng các tỉnh (thành phố) biên giới, biển, đảo, địa bàn trọng điểm, lực lượng phòng thủ có thể kết hợp với lực lượng của quân khu, Bộ tiến hành tác chiến theo kế hoạch của tỉnh (thành phố), quân khu.

Lực lượng chủ lực quân khu có thể được tổ chức, sử dụng và bố trí như sau: 1) Bộ phận phòng thủ, phòng ngự, tổ chức trên hướng chủ yếu, quan trọng. Trong điều kiện cụ thể, quân khu có thể sử dụng một phần bộ đội chủ lực kết hợp với bộ đội địa phương phòng ngự, phòng thủ. Ở một số trường hợp đặc biệt, quân khu có thể tổ chức chốt chiến dịch; trung đoàn, sư đoàn phòng ngự, thậm chí mở chiến dịch phòng ngự. Lực lượng này có nhiệm vụ ngăn chặn, kìm giữ, tiêu hao, tiêu diệt địch tiến công; phối hợp với lực lượng cơ động của khu vực phòng thủ, của quân khu tiến hành các trận chiến đấu, chiến dịch phản công, tiến công tiêu diệt từng bộ phận quan trọng trên các hướng tiến công của địch, giữ vững các khu vực, địa bàn then chốt, quan trọng, bảo vệ mục tiêu trọng yếu, tạo thế cho quần chúng đấu tranh chính trị. Các đơn vị này bố trí theo ý định của quân khu và phương án của khu vực phòng thủ. Lực lượng chủ lực bố trí ở chốt chiến dịch, khu vực, địa hình có giá trị để khống chế các trục đường, hướng tiến công chủ yếu của địch. 2) Lực lượng cơ động tiến công, gồm các sư đoàn bộ binh của quân khu, có thể huy động một số trung đoàn địa phương của khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố). Sử dụng các đơn vị cơ động tiêu diệt bộ phận quan trọng, chủ yếu trên các hướng tiến công đường bộ, đường không của địch. Khi cần, có thể sử dụng một bộ phận tăng cường hoặc thay thế lực lượng phòng ngự tham gia dẹp bạo loạn, hỗ trợ nhân dân đấu tranh chính trị, địch vận; chuyển vào phòng ngự giữ vững khu vực, địa bàn trọng điểm, v.v. Quân khu có thể bố trí lực lượng này theo từng khu vực, hướng phòng thủ; thậm chí bố trí một bộ phận ở vị trí bí mật, có công sự chuẩn bị trước, sẵn sàng cơ động đánh địch theo phương án. 3) Lực lượng quân chủng, binh chủng, gồm: các đơn vị xe tăng - thiết giáp, pháo binh, công binh, hóa học, tác chiến điện tử, thông tin, hậu cần, kỹ thuật,… của quân khu và có thể có một bộ phận binh chủng của tỉnh (thành phố). Lực lượng này phối hợp chặt chẽ với lực lượng binh chủng, quân chủng của Bộ chi viện cho quân khu đánh địch đổ bộ đường không, đường biển, giữ vững tuyến biên giới, biển đảo, các khu vực phòng thủ, v.v. 4) Lực lượng tinh nhuệ, chuyên trách, gồm: các đơn vị đặc công, đội chuyên trách binh chủng của quân khu kết hợp với lực lượng khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố) đánh hiểm, đánh sâu, kết hợp đánh tiêu diệt với đánh uy hiếp, quấy rối các mục tiêu, như: sở chỉ huy, sân bay dã chiến, trận địa pháo,... nhằm sát thương sinh lực, phá huỷ phương tiện, buộc địch phải phân tán đối phó, v.v. Cũng có thể bố trí bí mật các đơn vị này trong các căn cứ chiến đấu, bảo đảm cơ động linh hoạt xung quanh vị trí, khu vực tạm chiếm của địch. 5) Lực lượng hậu cần, kỹ thuật, quân khu có thể tổ chức một số căn cứ, các phân căn cứ hậu cần - kỹ thuật và một số kho, trạm, xưởng sản xuất; đẩy mạnh sản xuất phục vụ tác chiến phòng thủ. Bố trí các đơn vị này ở những vị trí thuận lợi, có thể huy động tối đa nguồn lực tại chỗ, duy trì sản xuất, cung cấp đầy đủ vật chất hậu cần, kỹ thuật cho các đơn vị. 6) Lực lượng sở chỉ huy, gồm: bộ tư lệnh, các cơ quan quân khu và có thể có đại diện cấp trên, quân chủng, binh chủng và địa phương trong quân khu; có nhiệm vụ chỉ huy mọi hoạt động của lực lượng vũ trang quân khu. Bố trí hệ thống sở chỉ huy phải bảo đảm thuận lợi trong chỉ huy, bí mật, an toàn và cơ động linh hoạt. 7) Lực lượng đấu tranh chính trị, gồm các đoàn thể, quần chúng và một bộ phận lực lượng vũ trang được tổ chức chặt chẽ, lãnh đạo, chỉ huy thống nhất của quân khu; được tổ chức ở các khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố). Quân khu phải nắm chắc tình hình các mặt để chỉ đạo toàn diện. Lực lượng này thực hiện nhiệm vụ phát hiện những nhân tố gây bạo loạn, triệt phá các tổ chức phản động; tuyên truyền giáo, dục nhân dân, phát hiện, cô lập, diệt những tên đầu sỏ, phản động; tiến hành địch vận làm suy yếu tinh thần binh lính địch. Đấu tranh với địch bằng những hình thức, biện pháp phù hợp, như: chống càn quét, bắn phá ngăn chặn địch cơ động, di chuyển.

Tác chiến phòng thủ quân khu là hoạt động mang tính tổng hợp cao, vận dụng linh hoạt các hình thức đấu tranh truyền thống và phi truyền thống. Để hoạt động tác chiến phòng thủ quân khu giành thắng lợi, đòi hỏi các cấp, ngành, lĩnh vực phải chủ động, tích chuẩn bị tiềm lực quốc phòng đủ mạnh ngay từ thời bình, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Thiếu tướng, PGS, TS. NGUYỄN VĂN HẢI, Học viện Quốc phòng

Ý kiến bạn đọc (0)

Giá trị nhân văn Hồ Chí Minh - nền tảng của sự phát triển xã hội
Nhân kỷ niệm 125 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, Phó giáo sư, Tiến sỹ Phạm Ngọc Anh, Viện Hồ Chí Minh, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh có bài viết "Giá trị nhân văn Hồ Chí Minh - nền tảng của sự phát triển xã hội" khẳng định, với bản chất và đặc trưng phổ quát, giá trị cơ bản của tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh là nền tảng phát triển xã hội, kiến tạo hệ thống quan hệ xã hội mang đậm bản chất người và giá trị làm người chân chính.