Nghiên cứu - Tìm hiểu Nghiên cứu - Trao đổi

QPTD -Thứ Hai, 18/11/2024, 07:27 (GMT+7)
Một số vấn đề về động viên quốc phòng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc

Động viên quốc phòng nhằm tăng cường sức mạnh quân sự, quốc phòng của quốc gia; sẵn sàng lực lượng, phương tiện bảo đảm cho lực lượng vũ trang và nhân dân xử lý kịp thời, hiệu quả và giành thắng lợi trong mọi tình huống quốc phòng (nếu xảy ra). Đây là nội dung rất quan trọng cần được nghiên cứu thấu đáo cả về lý luận và thực tiễn.

Chúng ta biết, sau khi nước nhà thống nhất, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta bước vào thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Theo đó, cùng với đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, thúc đẩy đất nước phát triển, Đảng và Nhà nước ta hết sức coi trọng củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh. Tuy nhiên, đứng trước tình hình thế giới, khu vực tiếp tục có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường; các nguy cơ đe dọa đến hòa bình, ổn định và phát triển đất nước chưa được ngăn chặn, đẩy lùi triệt để, thậm chí có mặt, có thời điểm còn gia tăng, tiềm ẩn nguy cơ khó lường, Đảng ta đã đề ra chủ trương, đường lối, chính sách quốc phòng, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Trong đó, động viên quốc phòng là một nội dung định hướng chiến lược hết sức quan trọng, nhằm chuẩn bị mọi nguồn lực của đất nước từ sớm, thực hiện “giữ nước từ khi nước chưa nguy”, sẵn sàng huy động mọi nguồn lực của nền kinh tế và đất nước cho nhiệm vụ quốc phòng trong mọi tình huống.

Phát huy vai trò, chức năng, nhiệm vụ của công nghiệp quốc phòng, động viên công nghiệp trong tình hình mới. Ảnh: baochinhphu.vn

Trên cơ sở Luật Quốc phòng năm 2018 và nghiên cứu tình hình thực tiễn, bài viết đề xuất một số nội dung, giải pháp chủ yếu về công tác động viên quốc phòng để cùng nghiên cứu, trao đổi.

Trước hết, cần thấy rằng, động viên chính trị - tinh thần là vấn đề có ý nghĩa chiến lược mang tính quyết định trong động viên quốc phòng, nhằm củng cố lòng tin, tạo sức mạnh tổng hợp của toàn dân đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đặc biệt, trong bối cảnh hiện nay, việc phát huy truyền thống bất khuất chống giặc ngoại xâm của dân tộc, nâng cao ý thức cảnh giác, nhận thức rõ bản chất của các thế lực thù địch lại càng có ý nghĩa quan trọng, tạo động lực mạnh mẽ giúp toàn Đảng, toàn quân và toàn dân vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, sẵn sàng đối mặt với những thử thách, cam go. Để động viên chính trị - tinh thần trong điều kiện mới đòi hỏi, các cấp, ngành, địa phương, lực lượng và toàn dân cần tiếp tục phát huy truyền thống quật cường, bất khuất chống giặc ngoại xâm cùng những bài học về sự hy sinh cao cả, ý chí kiên cường của dân tộc,... qua đó, tạo sức mạnh chính trị - tinh thần to lớn trong sự nghiệp quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Trong đó, cần tập trung giáo dục, tuyên truyền vận động các tầng lớp nhân dân giữ vững và nêu cao tinh thần cảnh giác cao độ, nhận rõ bản chất, âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, từ đó xây dựng quyết tâm chính trị cao, sự chung sức, đồng lòng của toàn xã hội, sẵn sàng chịu đựng mọi hy sinh, gian khổ để bảo vệ vững chắc Tổ quốc và cuộc sống bình yên của nhân dân. Đây là nhiệm vụ không chỉ của lực lượng vũ trang mà của cả hệ thống chính trị và toàn thể nhân dân, nhằm bảo đảm sự ổn định, phát triển của đất nước trong bối cảnh mới.

Hai là, động viên nhân lực, nhất là trong những thời điểm, trạng thái và tình huống quốc phòng trọng điểm. Để thực hiện tốt nội dung này, theo chúng tôi, trước hết cần tiếp tục làm tốt việc đăng ký, quản lý quân nhân dự bị; giao chỉ tiêu xây dựng lực lượng dự bị động viên; tổ chức biên chế, sắp xếp quân nhân dự bị vào đơn vị dự bị động viên; tuyển chọn, đào tạo sĩ quan dự bị; huấn luyện, diễn tập, kiểm tra sẵn sàng động viên, sẵn sàng chiến đấu của quân nhân dự bị, đơn vị dự bị động viên; thực hiện công tác đảng, công tác chính trị; bảo đảm hậu cần, kỹ thuật, tài chính trong xây dựng lực lượng dự bị động viên. Tuy nhiên hiện nay, trước tác động nhiều chiều của cơ chế thị trường, việc quản lý, xây dựng, huy động lực lượng này cần kết hợp chặt chẽ, đồng bộ với đổi mới các cơ chế, chính sách phù hợp, nhằm huy động tốt nhất cả về số lượng, chất lượng quân nhân dự bị cho nhu cầu quốc phòng. Với xây dựng nguồn dân quân tự vệ, cùng với đăng ký, quản lý công dân trong độ tuổi (đã hoàn thành hoặc chưa thực hiện nghĩa vụ quân sự) tham gia dân quân tự vệ, cần chú trọng xây dựng nguồn nhân lực của nền kinh tế, góp phần quyết định nguồn nhân lực phục vụ cho nhiệm vụ quốc phòng trong các trạng thái quốc phòng, nhất là trong chiến tranh (tham gia sản xuất, sửa chữa, phục vụ hậu cần, làm đường, vận tải,...); sẵn sàng phục vụ quốc phòng theo các quy định của pháp luật hiện hành.

Đi liền với công tác xây dựng, việc huy động nhân lực, nhất là huy động lực lượng dự bị động viên trong động viên quốc phòng là vấn đề quan trọng nhưng cũng rất phức tạp, liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành và nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, đòi hỏi trải qua nhiều khâu, bước bảo đảm chặt chẽ, khoa học. Vì vậy, việc thực hiện nội dung này cần quán triệt, thực hiện nghiêm túc theo từng khâu, bước, như: thông báo quyết định, lệnh huy động; tổ chức vận chuyển, giao, nhận quân nhân dự bị; thực hiện công tác đảng, công tác chính trị; bảo đảm hậu cần, kỹ thuật, tài chính trong huy động, tiếp nhận quân nhân dự bị, v.v. Đối với lực lượng dân quân tự vệ, chỉ huy động khi có lệnh động viên cục bộ, tổng động viên hoặc khi ban bố tình trạng khẩn cấp do thảm họa, thiên tai, dịch bệnh nguy hiểm hoặc tình hình đe dọa nghiêm trọng đến an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội. Về huy động nguồn nhân lực của nền kinh tế phục vụ nhiệm vụ quốc phòng cần thực hiện theo các quy định của pháp luật, gồm: thông báo quyết định, lệnh huy động; tập trung, vận chuyển, giao, nhận lực lượng huy động; tiến hành công tác chính trị, tư tưởng và bảo đảm hậu cần, kỹ thuật, tài chính trong huy động.

Ba là, động viên cơ sở, vật chất, phương tiện kỹ thuật của nền kinh tế là một trong những nội dung quan trọng, nhằm tạo động lực, sức mạnh tổng hợp trong động viên quốc phòng. Do đó, việc đăng ký, quản lý phương tiện kỹ thuật dự bị có ý nghĩa quyết định chất lượng, hiệu quả trong thực hiện nhiệm vụ này. Để bảo đảm tính khả thi cao, theo chúng tôi, ngay từ thời bình cần làm tốt công tác tổ chức biên chế, sắp xếp phương tiện kỹ thuật dự bị vào đơn vị dự bị động viên; thực hiện huấn luyện, diễn tập, kiểm tra sẵn sàng động viên (cả chủ phương tiện và phương tiện) cũng như bảo đảm hậu cần, kỹ thuật, tài chính trong động viên một cách thường xuyên. Trong đó, hết sức chú trọng xây dựng các doanh nghiệp công nghiệp động viên cho quốc phòng theo quy định của pháp luật. Tăng cường khảo sát, lựa chọn cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật; đánh giá nguồn lực tài chính; xây dựng quy hoạch, kế hoạch, giao chỉ tiêu động viên; chuyển giao, duy trì dây chuyền sản xuất, sửa chữa vũ khí, trang bị; đăng ký, quản lý cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật và nguồn lực tài chính; huấn luyện, bồi dưỡng chuyên môn, diễn tập, kiểm tra sẵn sàng động viên; bảo đảm tài chính, vật tư kỹ thuật trong xây dựng nguồn lực động viên của nền kinh tế.

Trong bối cảnh đất nước ta đứng trước cả thời cơ và thách thức đan xen, đòi hỏi ngay từ thời bình việc động viên công nghiệp phải bảo đảm cả về bề rộng và chiều sâu, có trọng tâm, trọng điểm. Trước mắt, cần chú trọng động viên, huy động các doanh nghiệp công nghiệp dân sinh tham gia sản xuất, sửa chữa các sản phẩm có tính lưỡng dụng, sẵn sàng phục vụ nhu cầu quốc phòng khi cần thiết. Về lâu dài, Nhà nước sử dụng tối đa công suất của công nghiệp quốc phòng và huy động một phần hoặc toàn bộ công suất của công nghiệp dân sinh theo quy định của pháp luật về động viên công nghiệp. Khi chuyển sang các trạng thái quốc phòng, thực hiện chuyển phần lớn các nhà máy dân sinh sang sản xuất hàng phục vụ quốc phòng, mở rộng quy mô sản xuất các mặt hàng phục vụ nhu cầu chiến tranh; bổ sung, thay thế dây chuyền công nghệ mới; giảm bớt những mặt hàng không cấp thiết; áp dụng chế độ ưu tiên, phân phối vật tư, thiết bị và các biện pháp sản xuất cho nhu cầu quốc phòng. Động viên cán bộ, công nhân viên chuyên môn kỹ thuật của các ngành, các doanh nghiệp phục vụ cho quốc phòng và ban hành chế độ lao động, sinh hoạt của công nhân, viên chức trong thời chiến, v.v.

Bốn là, động viên khoa học, công nghệ (bao hàm cả nội dung xây dựng và huy động) trong động viên quốc phòng. Đây là nội dung quan trọng, nhưng không dễ huy động nếu không có cơ chế và giải pháp phù hợp. Vì vậy, động viên khoa học, công nghệ trong các trạng thái quốc phòng phải căn cứ vào tình hình thực tiễn để xây dựng kế hoạch, giao chỉ tiêu động viên và thực hiện chuyển giao công nghệ, kết quả nghiên cứu khoa học, công nghệ cũng như kết quả phát triển công nghệ phục vụ quốc phòng. Đồng thời, cần làm tốt công tác đăng ký, quản lý các cơ sở khoa học, công nghệ; huấn luyện, bồi dưỡng chuyên môn, diễn tập, kiểm tra sẵn sàng động viên; bảo đảm tài chính cho xây dựng nguồn động viên quan trọng này.

Cùng với đó, cần chú trọng tổ chức lại các ngành nghiên cứu khoa học có liên quan phục vụ nhiệm vụ quốc phòng; tăng cường các cơ chế trao đổi cung cấp thông tin, dữ liệu, phối hợp khai thác, hỗ trợ xây dựng sửa chữa các cơ sở dữ liệu khoa học, công nghệ; huy động cán bộ khoa học, công nghệ, cơ sở vật chất, phương tiện, trang bị cho các cơ sở nghiên cứu khoa học công nghệ quân sự; huy động các chuyên gia, cán bộ, nhân viên kỹ thuật triển khai nghiên cứu các hạng mục khoa học công nghệ mà chiến tranh yêu cầu; huy động tiềm lực khoa học, công nghệ của Nhà nước cho nghiên cứu, phát triển khoa học, công nghệ phục vụ quốc phòng; vận dụng các phương thức huy động phù hợp.

Năm là, chuyển tổ chức, biên chế, hoạt động của các bộ, ngành, địa phương vào các trạng thái quốc phòng, mà trọng tâm là tổ chức hệ thống chỉ huy, điều hành và thực hành chuyển một bộ phận nền kinh tế quốc dân sang bảo đảm cho nhiệm vụ quốc phòng phù hợp với từng trạng thái quốc phòng. Quá trình thực hiện cần quán triệt, nắm vững và tuân thủ kế hoạch động viên quốc phòng theo mệnh lệnh của cấp có thẩm quyền. Trong đó, cần tập trung thực hiện các hoạt động: mở rộng lực lượng vũ trang theo kế hoạch của từng trạng thái quốc phòng và trạng thái sẵn sàng chiến đấu; tổ chức sơ tán, phân tán, di chuyển lực lượng, phương tiện, các cơ sở sản xuất, cơ quan, tổ chức, nhân dân theo kế hoạch của từng trạng thái quốc phòng; xác định nhiệm vụ, quyền hạn về quốc phòng của bộ, ngành Trung ương, địa phương trong từng trạng thái quốc phòng; cung cấp dịch vụ, phân phối thời chiến; đẩy mạnh thi đua sản xuất, thực hành tiết kiệm; tập trung bảo đảm cho lực lượng vũ trang; ban hành chế độ làm việc, sinh hoạt, hoạt động sản xuất, phân phối của nền kinh tế thời chiến; bảo đảm thông tin, liên lạc, thông báo, báo động trong thời chiến kịp thời, thông suốt.

Động viên quốc phòng đóng vai trò vô cùng quan trọng trong chiến lược bảo vệ Tổ quốc, đặc biệt trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực luôn biến động phức tạp, khó lường. Vì thế, nghiên cứu, thực hiện đầy đủ các nội dung động viên quốc phòng không chỉ giúp ngăn chặn, đối phó hiệu quả với mọi nguy cơ đe dọa từ bên ngoài, mà còn là nền tảng vững chắc để phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Đại tá, PGS, TS. NGUYỄN LONG, Học viện Quốc phòng

Ý kiến bạn đọc (0)

Giá trị nhân văn Hồ Chí Minh - nền tảng của sự phát triển xã hội
Nhân kỷ niệm 125 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, Phó giáo sư, Tiến sỹ Phạm Ngọc Anh, Viện Hồ Chí Minh, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh có bài viết "Giá trị nhân văn Hồ Chí Minh - nền tảng của sự phát triển xã hội" khẳng định, với bản chất và đặc trưng phổ quát, giá trị cơ bản của tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh là nền tảng phát triển xã hội, kiến tạo hệ thống quan hệ xã hội mang đậm bản chất người và giá trị làm người chân chính.