Nghiên cứu - Tìm hiểu Nghiên cứu - Trao đổi

QPTD -Thứ Hai, 23/08/2021, 15:59 (GMT+7)
Giải pháp nâng cao công tác quản lý hoạt động khoa học và công nghệ của các đơn vị trong Bộ Quốc phòng

Để hoạt động khoa học và công nghệ tại các đơn vị trong Bộ Quốc phòng ngày càng phát triển, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ công tác quân sự, quốc phòng và đẩy mạnh ứng dụng các thành tựu của khoa học và công nghệ vào thực tiễn, cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp. Trong đó, nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác quản lý khoa học và công nghệ là nhiệm vụ thường xuyên cần quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện tốt.

Trong quá trình lãnh đạo công cuộc xây dựng đất nước, Đảng ta đã sớm nhận thức được vai trò của khoa học và công nghệ đối với sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của nước nhà và có quan điểm nhất quán về vấn đề này. Qua hơn 30 năm đổi mới của đất nước, khoa học và công nghệ đã hiện hữu trong tất cả các ngành, lĩnh vực, các cấp, các cơ quan, đơn vị; từng bước khẳng định vai trò động lực quan trọng trong quá trình phát triển, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Qua các kỳ đại hội, Đảng ta coi khoa học và công nghệ và đổi mới sáng tạo là một trong các đột phá chiến lược quan trọng nhất tiến tới phát triển nhanh, bền vững; yêu cầu phải có thể chế, cơ chế, chính sách đặc thù, vượt trội, thúc đẩy ứng dụng, chuyển giao công nghệ. Nâng cao năng lực nghiên cứu, làm chủ một số công nghệ mới, hình thành năng lực sản xuất mới có tính tự chủ và khả năng thích ứng; lấy doanh nghiệp làm trung tâm nghiên cứu phát triển, ứng dụng và chuyển giao công nghệ, ứng dụng công nghệ số. Phát triển hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia, hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo.

Quán triệt sâu sắc và triển khai thực hiện nghiêm túc Nghị quyết Đại hội XI Đảng bộ Quân đội; tiếp tục thực hiện Kết luận số 62-KL/QUTW, ngày 18/01/2019 của Thường vụ Quân ủy Trung ương về đánh giá kết quả 5 năm thực hiện Nghị quyết số 791-NQ/QUTW của Quân ủy Trung ương về lãnh đạo công tác khoa học, công nghệ và môi trường trong Quân đội đến năm 2020 và những năm tiếp theo,... công tác quản lý hoạt động khoa học và công nghệ có nhiều tiến bộ và mang lại hiệu quả thiết thực. Nhận thức của cấp ủy, chỉ huy, các tổ chức về vai trò của khoa học và công nghệ đối với nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày càng được quan tâm; chất lượng, hiệu quả công tác tham mưu cho hoạt động khoa học và công nghệ ngày càng được nâng cao; định hướng nghiên cứu, ứng dụng sản phẩm sau nghiên cứu rõ ràng, cụ thể. Công tác quản lý khoa học và công nghệ của các cơ quan, đơn vị trong Bộ Quốc phòng đã có bước đổi mới mạnh mẽ và phát huy thành tựu trong thực tiễn. Nhiều kết quả nghiên cứu trong lĩnh vực quân sự được ứng dụng, hỗ trợ cho phát triển kinh tế - xã hội; tỷ lệ ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học và công nghệ ngày càng tăng, nhiều sản phẩm được triển khai sản xuất, đưa vào trang bị trong Quân đội. Trình độ nghiên cứu cơ bản, công nghệ nền, công nghệ phụ trợ có bước phát triển; làm chủ thiết kế, chế tạo nhiều tổ hợp vũ khí, trang bị kỹ thuật công nghệ cao, góp phần nâng cao trình độ, năng lực nghiên cứu khoa học và công nghệ trên một số lĩnh vực. Đội ngũ cán bộ nghiên cứu được đào tạo, bồi dưỡng cơ bản, trưởng thành qua thực tiễn, cơ bản đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Cơ sở vật chất bảo đảm cho nghiên cứu từng bước được đầu tư, bổ sung, phù hợp với yêu cầu nghiên cứu, đào tạo khoa học và công nghệ. Công tác quản lý khoa học, công nghệ và môi trường có nhiều đổi mới, ngày càng đi vào nền nếp; sự phối kết hợp giữa các cơ quan quản lý tương đối chặt chẽ và hiệu quả.

Những kết quả đạt được trong công tác quản lý hoạt động khoa học và công nghệ  của các cơ quan, đơn vị trong Bộ Quốc phòng thời gian qua là sự tiếp nối các thành tựu và là nền tảng quan trọng tạo đà phát triển trong giai đoạn mới, tạo nên những đột phá trong giải quyết các vấn đề thực tiễn công tác quân sự, quốc phòng đặt ra, tham gia phát triển các ngành, lĩnh vực, góp phần đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững. Tuy nhiên, so với yêu cầu đề ra, công tác quản lý hoạt động khoa học và công nghệ của các cơ quan, đơn vị trong Bộ Quốc phòng vẫn còn một số hạn chế, cần khắc phục. Nổi lên là, nhận thức về vai trò của khoa học và công nghệ trong lĩnh vực quân sự, quốc phòng và trong đời sống xã hội chưa đầy đủ. Một số nơi chưa chủ động đổi mới và chuyển giao công nghệ để nhanh chóng nâng cao chất lượng sản phẩm, v.v.

Để nâng cao hiệu quả công tác quản lý hoạt động khoa học và công nghệ của các cơ quan, đơn vị trong Bộ Quốc phòng, tác giả đề xuất một số giải pháp cơ bản sau:

Thứ nhất, nâng cao nhận thức về vai trò của khoa học và công nghệ đối với đời sống xã hội nói chung, lĩnh vực quân sự, quốc phòng nói riêng. Đây được coi là giải pháp mở đường cho mọi giải pháp khác nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác khoa học và công nghệ. Bởi, nhận thức không đầy đủ thì dẫn đến hành động kém hiệu quả, thậm chí dẫn đến sai lầm. Không chỉ nhận thức của lãnh đạo mà nhận thức của cán bộ trong đơn vị cũng có ảnh hưởng quan trọng đến hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý khoa học và công nghệ. Bởi  vậy, cần có giải pháp phù hợp để nâng cao nhận thức của các nhóm đối tượng này; đẩy mạnh công tác tuyên truyền về vai trò của khoa học và công nghệ đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc và phát triển kinh tế - xã hội. Để làm được điều đó, trước hết phải kiên trì thực hiện và thường xuyên đẩy mạnh công tác tuyên truyền bằng nhiều hình thức phong phú, nhiều phương tiện, cách thức khác nhau, thích hợp với từng nhóm đối tượng; lấy kết quả hoạt động của khoa học và công nghệ trong thực tiễn làm thước đo sự cần thiết phải quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, nâng cao hiệu quả quản lý đối với hoạt động này, nhất là trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang hiện hữu trên mọi mặt đời sống xã hội. Trên cơ sở nhận thức đúng, cần có định hướng nghiên cứu và ứng dụng sản phẩm sau nghiên cứu, đảm bảo tính khoa học, thiết thực, hiệu quả; thường xuyên xây dựng kế hoạch kiểm tra nhằm điều chỉnh phù hợp với yêu cầu của thực tiễn; chủ động đổi mới và tiếp nhận chuyển giao công nghệ để nhanh chóng nâng cao chất lượng sản phẩm.

Thứ hai, làm tốt công tác tham mưu phát triển khoa học và công nghệ phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan, đơn vị. Trước hết, phải bám sát quan điểm, chủ trương phát triển khoa học và công nghệ của Đảng, Nhà nước và Quân đội; sự phát triển nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, xây dựng Quân đội, bảo vệ Tổ quốc để vận dụng phù hợp với yêu cầu và điều kiện hiện tại của đơn vị. Chất lượng, hiệu quả công tác tham mưu phát triển khoa học và công nghệ cao hay thấp phụ thuộc trước hết vào sự tâm huyết, ý thức trách nhiệm và tư duy sáng tạo; kế hoạch phát triển khoa học và công nghệ phải đổi mới, chủ động, có tính đột phá, phù hợp với thực tế của đơn vị và có tính bền vững, lâu dài, tránh đường mòn, lối cũ, thiếu tính khả thi. Các cơ quan, đơn vị trong Bộ Quốc phòng có trách nhiệm cụ thể hóa định hướng nhiệm vụ phát triển khoa học và công nghệ vào kế hoạch công tác quân sự, quốc phòng và sự chỉ đạo thực hiện kế hoạch khoa học và công nghệ trong cơ quan, đơn vị mình.

Thứ ba, đổi mới phương thức huy động, thu hút lực lượng nghiên cứu vào thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ. Nguồn nhân lực khoa học và công nghệ ở các đơn vị thường đa dạng, số lượng và chất lượng chưa đồng đều, nên việc xây dựng đội ngũ, huy động, thu hút lực lượng hoạt động trên lĩnh vực này là hết sức cần thiết. Trước hết, cần có phương thức huy động phù hợp, phát huy tối đa nội lực, khai thác tiềm năng, năng lực nội sinh của đội ngũ hiện có trên cơ sở bồi dưỡng, trang bị những kiến thức cần thiết đáp ứng yêu cầu nghiên cứu, triển khai thực hiện các sản phẩm của khoa học và công nghệ. Cùng với đó, cần thu hút lực lượng cán bộ khoa học có tâm, có tầm, có khả năng nghiên cứu, đóng góp vào sự phát triển khoa học và công nghệ của đơn vị. Chú trọng xây dựng cơ chế chính sách cho khoa học và công nghệ để động viên khuyến khích sự tìm tòi, sáng tạo trong hoạt động; bảo đảm lợi ích đi đôi với trách nhiệm, tăng cường kiểm tra, giám sát, đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ, đảm bảo cụ thể, minh bạch.

Thứ tư, xây dựng mô hình tổ chức hoạt động khoa học và công nghệ phù hợp, hiệu quả. Nguyên tắc cơ bản để hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý khoa học và công nghệ ở đơn vị là đảm bảo tính đa ngành, đa lĩnh vực, không có sự chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ và phạm vi, đối tượng quản lý giữa các cơ quan chuyên môn. Tổ chức bộ máy các cơ quan nghiên cứu phải tinh, gọn, hợp lý, chất lượng, tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động khoa học và công nghệ phát triển, hiệu lực, hiệu quả cao. Căn cứ vào tình tình hoạt động của đơn vị và để công tác quản lý khoa học và công nghệ phát huy vai trò trên thực tế cần tạo ra được mô hình có tính khoa học, đồng bộ, vừa có tính quản lý chuyên ngành, vừa đảm bảo thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị được giao.

Thứ năm, tăng cường phối hợp với các tổ chức, các cấp, các ngành trong công tác quản lý khoa học và công nghệ. Liên kết, phối hợp trong công tác quản lý khoa học và công nghệ nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp để nâng cao hiệu lực và hiệu quả công tác quản lý lĩnh vực này. Thực tiễn cho thấy, mỗi địa phương, mỗi tổ chức đều có những cách làm hay, hiệu quả, mặt mạnh trong công tác quản lý khoa học và công nghệ, nên cần đúc kết kinh nghiệm để phổ biến cho nhiều đơn vị khác học tập và áp dụng. Mỗi địa phương không thể có đủ kinh phí và cán bộ kỹ thuật để tự mình trang bị đầy đủ và vận hành các trang thiết bị, phương tiện mà cần có sự liên kết, phối hợp trong toàn hệ thống quản lý khoa học và công nghệ từ Trung ương đến địa phương. Đồng thời, xây dựng và phát triển mối liên kết hợp tác giữa các khu công nghệ cao với các cơ sở nghiên cứu, các trường đại học và các doanh nghiệp trong các lĩnh vực ưu tiên.

Thứ sáu, đảm bảo tài chính cho công tác quản lý hoạt động khoa học và công nghệ. Để chính sách tài chính là đòn bẩy thúc đẩy hệ thống nghiên cứu khoa học và công nghệ cần sớm đưa Quỹ phát triển khoa học và công nghệ vào hoạt động; khuyến khích đa dạng hóa nguồn kinh phí cho hoạt động nghiên cứu; công khai hoá và mở rộng các kênh tuyển chọn nhiệm vụ khoa học và công nghệ. Tăng cường sự cam kết của chủ nhiệm công trình; thay đổi quy định về thanh quyết toán theo hướng khoán; chấp nhận tính rủi ro trong nghiên cứu. Để tăng phần cam kết cho việc sử dụng kinh phí nhà nước, cần có quy định hay chế tài đối với các trường hợp thiếu trách nhiệm gây thất thoát hoặc sử dụng kinh phí không đem lại kết quả mà không có lý do hợp lý.

Trên đây là những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý khoa học và công nghệ của các đơn vị trong Bộ Quốc phòng. Thực hiện tốt các giải pháp đó, sẽ góp phần phát huy vai trò của khoa học và công nghệ trong xây dựng Quân đội tiến lên hiện đại, không ngừng nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu, bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong mọi tình huống.

Trung tá, ThS. PHM THANH TOÀN, Cục Khoa học quân sự, Bộ Quốc phòng

Ý kiến bạn đọc (0)

Giá trị nhân văn Hồ Chí Minh - nền tảng của sự phát triển xã hội
Nhân kỷ niệm 125 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, Phó giáo sư, Tiến sỹ Phạm Ngọc Anh, Viện Hồ Chí Minh, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh có bài viết "Giá trị nhân văn Hồ Chí Minh - nền tảng của sự phát triển xã hội" khẳng định, với bản chất và đặc trưng phổ quát, giá trị cơ bản của tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh là nền tảng phát triển xã hội, kiến tạo hệ thống quan hệ xã hội mang đậm bản chất người và giá trị làm người chân chính.