Nghiên cứu - Tìm hiểu Nghiên cứu - Trao đổi

QPTD -Chủ Nhật, 27/01/2013, 09:40 (GMT+7)
Bàn về tính phổ biến và tính đặc thù của kinh tế thị trường

Góp ý cho Điều 54 của Dự thảo Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 1992 (sửa đổi năm 2013), có người cho rằng, khi nói về chế độ kinh tế của Việt Nam, chỉ cần khẳng định “Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường”, không cần thêm cụm từ “định hướng XHCN”; bởi đã là kinh tế thị trường thì kinh tế thị trường ở nước nào cũng như nhau cả! Có đúng vậy không (?), khi mà nghiên cứu kỹ các mô hình kinh tế thị trường trên thế giới, thấy nổi lên là: bên cạnh cái chung, chúng cũng có cái riêng, cần phải nhận thức.

Thực tiễn gần 30 năm lựa chọn mô hình kinh tế thị trường (KTTT) thay cho mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp làm phương tiện để xây dựng CNXH ở nước ta đã khẳng định: đây là sự lựa chọn đúng đắn. Vì thế, tại Đại hội XI, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011) của Đảng tiếp tục khẳng định “phát triển nền KTTT định hướng XHCN”1 là một trong tám phương hướng cơ bản phải quán triệt và thực hiện tốt trong thời kỳ quá độ lên CNXH.

Việc vận hành các quan hệ thị trường trong quá trình thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc gần 30 năm qua đã đem lại cho đất nước ta nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử; mà nổi bật là: nước ta đã “ra khỏi tình trạng kém phát triển, bộ mặt của đất nước và đời sống của nhân dân có nhiều thay đổi; sức mạnh về mọi mặt được tăng cường, độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ XHCN được giữ vững, vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao”2. Tuy nhiên, những tác động mặt trái của KTTT kết hợp với những yếu kém trong công tác quản lý, nhất là quản lý vĩ mô nền kinh tế, cũng đang làm nảy sinh những ý kiến khác nhau khi nhận thức về KTTT. Câu hỏi đặt ra là: liệu thuật ngữ  “KTTT” có tính từ không? Hay nói cách khác, KTTT chỉ có tính phổ biến, hay có cả tính đặc thù? Lợi dụng vấn đề này, không ít người đã ra sức bài bác đường lối đổi mới của Đảng ta, phê phán mô hình “KTTT định hướng XHCN”, coi đó là “sự chắp vá gượng gạo” cái sản phẩm (tức KTTT) chỉ có ở CNTB cho CNXH!

Cần phải khẳng định ngay rằng, KTTT không phải là sản phẩm riêng của CNTB, mà nó còn có mặt ở cả những chế độ kinh tế - xã hội (KT-XH) khác. Nó là kết quả sự phát triển tự nhiên của sức sản xuất xã hội. Khi sức sản xuất xã hội đạt đến trình độ nhất định sẽ làm xuất hiện những điều kiện khách quan để các quan hệ thị trường nảy nở và phát triển. Đó là phân công lao động xã hội và những hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất. Những điều kiện khách quan đó đã xuất hiện trước khi CNTB ra đời và tiếp tục còn tồn tại trong xã hội XHCN, nên việc tiếp tục phát triển KTTT trong chế độ XHCN là hợp quy luật. Do vậy, nói rằng: chỉ riêng CNTB mới có KTTT, còn CNXH là nền kinh tế kế hoạch hóa là không đúng. Thực tiễn đã chỉ ra rằng, cả kinh tế kế hoạch và KTTT đều là sản phẩm của nền sản xuất xã hội hóa cao. Kinh tế kế hoạch cũng tồn tại ngay trong CNTB, nhất là trong giai đoạn CNTB độc quyền nhà nước; và KTTT, hay kinh tế hàng hóa, cũng vẫn tồn tại, phát triển trong CNXH, một khi các điều kiện khách quan cho sự tồn tại và phát triển của nó vẫn chưa mất đi. Bản thân KTTT là giai đoạn phát triển cao của kinh tế hàng hóa, nên trước hết nó là kinh tế hàng hóa. Việc sử dụng thuật ngữ “kinh tế hàng hóa” hay “KTTT” chỉ là sự khái quát khác nhau của một thực thể kinh tế, mà cái khác nhau nằm ở trọng tâm của mỗi sự diễn đạt, nhằm phân biệt với một thực thể kinh tế khác. Theo đó, thuật ngữ “KTTT” được các nhà kinh tế học tư sản hiện đại3 sử dụng đầu tiên để nhấn mạnh vai trò điều tiết của thị trường trong sự phân biệt với nền kinh tế chỉ huy, được điều tiết bởi kế hoạch mệnh lệnh. Còn thuật ngữ “kinh tế hàng hóa” được các nhà kinh tế học xô-viết sử dụng để phân biệt với các quan hệ kinh tế hiện vật phi thị trường. Ở nước ta, trước Đại hội IX, thuật ngữ “kinh tế hàng hóa” cũng được dùng phổ biến; còn thuật ngữ “KTTT” chỉ bắt đầu được sử dụng tại Đại hội IX, khi khẳng định: “Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN; đó chính là nền KTTT định hướng XHCN”4. Vậy là thuật ngữ  “KTTT” được Đảng ta sử dụng sau này cũng chỉ để nói về một thực thể kinh tế. Đó là “nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần”.

KTTT có mặt ở nhiều chế độ KT-XH, nên có những điểm chung; đồng thời, do gắn với từng chế độ KT-XH và từng nền văn hóa khác nhau, nó cũng có điểm đặc thù. Có thể khái quát tính chung của KTTT ở những nét chính sau:

- Đều vận hành theo sự chi phối của các quy luật chung: quy luật giá trị, quy luật lưu thông tiền tệ, quy luật cạnh tranh và quy luật cung - cầu.

- Chủ thể thị trường có tính độc lập. Theo đó, người sản xuất - kinh doanh (SX-KD) có quyền tự do kinh doanh, tự chủ trong việc quyết định: sản xuất cái gì, sản xuất bằng cách nào và sản xuất cho ai? Họ có quyền tự lựa chọn loại hình tổ chức và quản lý SX-KD thích hợp; tự chịu trách nhiệm kết quả SX-KD và phải lấy lợi nhuận làm động lực và mục tiêu của hoạt động kinh tế. Đối với người tiêu dùng, họ được xem là “thượng đế”, bởi họ là người quyết định sự tồn tại của người SX-KD thông qua việc mua nhiều hay ít, hoặc không mua hàng của người SX-KD nào đó trên thị trường.

- Thị trường giữ vai trò quyết định việc phân bổ các nguồn lực của xã hội. Các yếu tố đầu vào, đầu ra của sản xuất phải được lưu thông tự do trên thị trường. Muốn vậy, hệ thống thị trường và các loại thị trường phải được hình thành đồng bộ và vận hành trôi chảy theo tín hiệu của thị trường

-Giá cả hàng hóa, dịch vụ hình thành tự do trên thị trường, phụ thuộc vào hao phí lao động xã hội cần thiết và sự điều tiết của cung - cầu thị trường. Nhờ đó, tính cạnh tranh của thị trường được đề cao. Mọi sự can thiệp không tương thích với thị trường trong việc hình thành giá đều làm tổn hại đến sự vận hành trôi chảy của cả nền kinh tế.

- Các chủ thể thị trường có địa vị bình đẳng về mặt pháp lý trong các giao dịch kinh doanh. Sự bình đẳng này được bảo đảm bằng hệ thống pháp luật đồng bộ, nên các yếu tố cạnh tranh của thị trường không bị bóp méo.

- Là nền kinh tế mở, thị trường dân tộc gắn liền với thị trường thế giới.

- Chính phủ quản lý vĩ mô nền kinh tế, nhằm khắc phục những “thất bại” của thị trường. Hiện nay, không ở nước nào có nền KTTT tự do thuần túy.

Bên cạnh những tính chung nói trên, tính đặc thù của KTTT có thể tìm thấy ở những mô hình KTTT khác nhau, gắn liền với điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội nhất định. Có thể nhận diện tính đặc thù của KTTT qua một số tiêu chí sau:

- Chế độ sở hữu nào giữ vai trò chủ đạo, nền tảng trong một cơ cấu kinh tế có nhiều hình thức sở hữu – điều kiện tiên quyết cho sự tồn tại và phát triển của KTTT. Sự khác nhau này sẽ chi phối mục đích phát triển KTTT, mục đích can thiệp của nhà nước, địa vị của người lao động và nguyên tắc phân phối sản phẩm làm ra.

- Bản chất giai cấp của nhà nước sẽ làm nên sự khác biệt về mục đích chủ yếu của việc nhà nước quản lý, điều tiết nền KTTT.

- Bản sắc văn hóa, điều kiện KT-XH của mỗi quốc gia sẽ làm cho nền KTTT của mỗi quốc gia có những nét riêng. Trong thực tế, không có một nền KTTT trừu tượng, mà chỉ có những nền KTTT cụ thể, gắn liền với một chế độ KT-XH cụ thể, một nền văn hóa, một quốc gia, dân tộc cụ thể. Các yếu tố đó tạo nên những dấu ấn rất riêng trong các mô hình KTTT của mỗi quốc gia. Bản thân các mô hình: KTTT có kế hoạch của Nhật Bản, KTTT xã hội của Cộng hòa Liên bang Đức, KTTT của Mỹ, KTTT hỗn hợp của Bắc Âu, KTTT của các “con rồng châu Á” đều có những điểm khác biệt, mặc dù chúng đều tồn tại trong cùng một thể chế kinh tế chính trị TBCN. Chẳng hạn, trong mô hình KTTT của Nhật Bản, sự kết hợp giữa chức năng điều tiết của thị trường và chức năng kế hoạch của chính phủ được xem là một đặc trưng; ở đó, vai trò điều hành của chính phủ được thực hiện bằng các kế hoạch 5 năm, 10 năm. Trong khi đó, ở mô hình KTTT của Mỹ, yếu tố kế hoạch không được thừa nhận. Trong mô hình KTTT xã hội của Cộng hòa Liên bang Đức, chính phủ lại có trách nhiệm tổ chức “trật tự kinh tế” nhằm đảm bảo vừa chống độc quyền và những hoạt động cạnh tranh không lành mạnh; vừa chống tự do vô chính phủ. Mô hình KTTT Bắc Âu lại hướng tới công bằng xã hội và phúc lợi xã hội cao hơn so với mô hình của Đức, dựa vào nguồn thu từ việc đánh thuế cao đối với các doanh nghiệp. Trong mô hình này, kinh tế nhà nước chỉ chiếm có 10%, song thường chiếm giữ những ngành kinh tế then chốt, với mục đích chủ yếu nhằm chống lại sức ép và khống chế của các công ty nước ngoài...

Nhận thức được tính chungtính đặc thù của KTTT trong quá trình phát triển nền KTTT ở nước ta, chúng ta phải vừa tuân thủ tính chung mà bất cứ nền KTTT nào cũng có; đồng thời, phải đặc biệt quan tâm đến tính đặc thù, nhằm hiện thực hóa từng bước mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Đó chính là mô hình KTTT định hướng XHCN. Mô hình đó có những đặc điểm sau:

- Lấy việc giải phóng và phát triển lực lượng sản xuất theo hướng hiện đại, cải thiện đời sống nhân dân làm mục đích phát triển KTTT. Do vậy, cùng với việc khai thác những mặt tích cực, phù hợp với mục tiêu xây dựng CNXH, chúng ta phải rất chú trọng khắc phục những tác động mặt trái của nó gây ra.

- Dựa trên cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất; trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Điều đó đòi hỏi phải vừa tạo điều kiện để mọi thành phần kinh tế đều phát triển, vừa phải chăm lo củng cố, giữ vững và phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Trong giai đoạn hiện nay, để kinh tế nhà nước làm tốt hơn vai trò chủ đạo, cần quán triệt và thực hiện có hiệu quả Kết luận số 50-KL/TW về Đề án “Tiếp tục sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước trong tình hình mới” của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương (khóa XI) lần thứ 6 vừa qua. Theo đó, phải đẩy mạnh tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước mà trọng tâm là các tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước trên cơ sở tôn trọng, vận dụng đầy đủ, đúng đắn các quy luật, nguyên tắc của KTTT; kiên quyết chấm dứt tình trạng đầu tư dàn trải ra ngoài lĩnh vực SX-KD chính; đồng thời, hoàn thiện thể chế quản lý doanh nghiệp nhà nước, đổi mới quản trị và cơ chế hoạt động cho phù hợp với điều kiện phát triển KTTT.

- Lấy cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước pháp quyền XHCN  làm cơ chế vận hành nền kinh tế. Theo đó, chúng ta phải quan tâm giải quyết tốt mối quan hệ giữa nhà nước với thị trường. Nhà nước vừa không phó mặc cho thị trường điều tiết, vừa không tùy tiện can thiệp làm sai lệch các quan hệ thị trường khi thực hiện quyết tâm chính trị: hiện thực hóa các mục tiêu của CNXH. Bên cạnh đó, phải chăm lo xây dựng bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước ta, đảm bảo cho Nhà nước ta thực sự là nhà nước của dân, do dân, vì dân. Muốn vậy, chúng ta phải vừa coi trọng việc nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, vừa đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng một cách quyết liệt, nhằm làm trong sạch bộ máy Nhà nước ta.

- Giải quyết vấn đề công bằng xã hội được chú ý ngay trong từng bước phát triển của nền kinh tế. Theo đó, công bằng xã hội không chỉ là phương tiện để tăng trưởng và phát triển như trong nền KTTT TBCN, mà còn là mục tiêu cần phải hiện thực hóa từng bước trong quá trình đi lên CNXH. Do vậy, vấn đề công bằng xã hội phải được đặt ra ngay trong từng chiến lược, kế hoạch phát triển KT-XH của cả nước cũng như của từng bộ, ngành, địa phương.

Thừa nhận KTTT có tính chung; đồng thời có cả tính đặc thù không thuần túy chỉ có ý nghĩa học thuật. Chỉ có trên cơ sở nhận thức đúng cái chung và cái riêng đó, mới có cơ sở để kiên định với sự lựa chọn mô hình KTTT định hướng XHCN mà Điều 54 của Dự thảo Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 1992 (sửa đổi năm 2013) đã nêu ra./. 

Đại tá, ThS. DƯƠNG VĂN THI

Trường Sĩ quan Chính tr

Ý kiến bạn đọc (0)

Giá trị nhân văn Hồ Chí Minh - nền tảng của sự phát triển xã hội
Nhân kỷ niệm 125 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, Phó giáo sư, Tiến sỹ Phạm Ngọc Anh, Viện Hồ Chí Minh, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh có bài viết "Giá trị nhân văn Hồ Chí Minh - nền tảng của sự phát triển xã hội" khẳng định, với bản chất và đặc trưng phổ quát, giá trị cơ bản của tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh là nền tảng phát triển xã hội, kiến tạo hệ thống quan hệ xã hội mang đậm bản chất người và giá trị làm người chân chính.