Nghiên cứu - Tìm hiểu Lịch sử Quân sự Việt Nam

QPTD -Thứ Hai, 04/09/2017, 16:09 (GMT+7)
Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 - giá trị lịch sử và hiện thực

Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 - “Áng văn lập quốc vĩ đại”, mở đầu cho kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đây là văn kiện quan trọng nhất trong lịch sử Việt Nam hiện đại. Những tư tưởng bất hủ được kết tinh từ trí tuệ Việt Nam, ý chí tự lực, tự cường cùng khát vọng cháy bỏng về nền độc lập, tự do của dân tộc sẽ mãi trường tồn.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập tại Quảng trường Ba Đình
ngày 2-9-1945. (Ảnh tư liệu)

Sau khi khởi nghĩa giành được chính quyền ở Hà Nội (ngày 19-8-1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh về Thủ đô và tại ngôi nhà lịch sử số 48 phố Hàng Ngang, Bác đã viết bản Tuyên ngôn Độc lập để chuẩn bị cho ngày quan trọng nhất của đất nước - Ngày Lễ tuyên bố độc lập. Bản Tuyên ngôn đó được Chủ tịch Hồ Chí Minh, thay mặt Chính phủ lâm thời đọc trước gần 01 triệu đồng bào dự mít tinh tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội) vào ngày 02-9-1945 - Ngày Quốc khánh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam). Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 với 49 câu, 1.013 từ là “Áng văn lập quốc vĩ đại” đã thể hiện đầy đủ trí tuệ, khí phách, văn hiến, nhân văn, ý chí và khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam trong thời đại mới - thời đại Hồ Chí Minh. Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 vì thế hàm chứa giá trị lịch sử bền vững và giá trị hiện thực sâu sắc.

Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 là văn kiện mang giá trị thời đại sâu sắc. Kế thừa những tinh hoa, tiến bộ trong Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ, Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền năm 1791 của Cách mạng Pháp, ngay mở đầu Tuyên ngôn Độc lập năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định chân lý lịch sử: “Tất cả mọi người đều sinh ra bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”1. Đó là sự khẳng định một cách rất rõ ràng về quyền của con người, cho dù con người đó được sinh ra từ đâu, vào thời điểm nào thì họ đều có quyền và được hưởng quyền con người, mà cụ thể là quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Đây là “những lẽ phải không ai chối cãi được”2.

Từ sự khẳng định về chân lý lịch sử đó và từ quyền của mỗi người, của mọi người, trong Tuyên ngôn, Hồ Chí Minh đã “suy rộng ra” để nâng lên tầm cao mới: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”3. Đây là điều đặc sắc. Hồ Chí Minh với tầm nhìn thời đại, đã vượt lên trên các bản tuyên ngôn trước đó tư tưởng về nhân quyền - quyền của mỗi người nâng lên thành quyền dân tộc. Chính điều này mà Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 đã thể hiện giá trị thời đại sâu sắc. Bởi, nó không chỉ là bản tuyên ngôn của dân tộc Việt Nam, mà đã trở thành tuyên ngôn về quyền độc lập, tự do của tất cả các dân tộc bị áp bức, đấu tranh cho hòa bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội. Đây thực sự là một văn bản pháp lý rất hiện đại, một đạo luật mới của nhân dân thế giới, khẳng định quyền tự do, độc lập, bất khả xâm phạm của các dân tộc trên thế giới, kể cả những dân tộc nhỏ, yếu, đang bị áp bức.

Tuyên ngôn Độc lập là bản cáo trạng đối với thực dân Pháp và phát xít Nhật - nguyên nhân chủ yếu gây ra nỗi thống khổ cho dân tộc Việt Nam. Trước quốc dân Việt Nam và thế giới, Tuyên ngôn Độc lập đã lên án mạnh mẽ hành động cướp nước, chế độ thống trị hà khắc của thực dân Pháp và phát xít Nhật đối với dân tộc Việt Nam. Chúng đã ngụy biện cho hành động xâm lược của mình để rồi chà đạp và cướp đi quyền con người, quyền của một dân tộc; vì vậy mà người dân Việt Nam, dân tộc Việt Nam không có được cái quyền tất yếu đó. Khi phát xít Nhật đến xâm lăng Đông Dương, thực dân Pháp còn hèn hạ quỳ gối đầu hàng để rước chúng vào đô hộ nước ta, làm cho nhân dân ta phải chịu hai tầng xiềng xích. Trước đó, người dân vốn đã cực khổ trăm đường do thực dân Pháp gây ra, giờ đây lại càng cực khổ, nghèo nàn hơn, do chính sách dã man của Nhật, làm cho hai triệu đồng bào ta chết đói trong năm 1945. Do vậy, bản cáo trạng đanh thép đó đã giúp nhân dân ta thấu hiểu hơn nguyên do của sự đói khổ, đau thương là chính sách lừa bịp, đàn áp, bóc lột dã man của chế độ thực dân, phát xít. Từ đó, tận dụng thời cơ “có một không hai” - Nhật đầu hàng Đồng minh, bằng sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc, dưới sự lãnh đạo sáng suốt và tài tình của Đảng, nhất tề đứng lên giành chính quyền về tay nhân dân, lập nên nhà nước độc lập, tự do của dân đầu tiên ở Đông Nam Á. Đây thực sự là thành quả vĩ đại của toàn thể dân tộc Việt Nam. Chúng ta đã đánh đổ các xiềng xích của thực dân gần 100 năm để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập và đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ để lập nên chế độ Dân chủ Cộng hòa.

Tuyên ngôn Độc lập khẳng định quyết tâm giữ vững quyền tự do và độc lập mà nhân dân ta đã giành được. “Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”4. Lời kết thúc bản Tuyên ngôn đã khẳng định đanh thép ý chí, quyết tâm của dân tộc, sẵn sàng chấp nhận hy sinh để bảo vệ thành quả quý giá, lớn lao nhất, đó là: quyền độc lập, tự do, quyền tồn tại của một dân tộc, quốc gia độc lập. Tư tưởng đó đã củng cố ý chí quyết tâm và khát vọng theo đuổi cho nền độc lập, tự do trọn vẹn ấy của dân tộc. Nhờ đó, toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta đã kiên trì thực hiện cuộc trường chinh 30 năm (1945 - 1975) đầy hy sinh, gian khổ và anh dũng để chiến đấu đánh bại hai tên đế quốc lớn - Pháp và Mỹ, giành độc lập, tự do, thống nhất đất nước. Tiếp đó lại kiên cường chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc và Tây Nam cũng như công cuộc bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Đó chính là ý chí quyết tâm và khát vọng theo đuổi nền độc lập, tự do trọn vẹn cho dân tộc đã khẳng định trong Tuyên ngôn, được cụ thể hóa bằng tinh thần bất diệt: “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ” trong kháng chiến chống thực dân Pháp; bằng chân lý lịch sử: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn cách mạng hiện nay.

Hơn 70 năm đã qua, những tư tưởng bất hủ của Tuyên ngôn Độc lập tiếp tục định hướng cho cách mạng Việt Nam. Đặc biệt, trước tình hình thế giới và trong nước hiện có cả thuận lợi, thời cơ và khó khăn, thách thức đan xen, đặt ra yêu cầu mới đối với sự nghiệp đổi mới, phát triển đất nước và bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.

Quán triệt và kế thừa tư tưởng độc lập, tự chủ của Tuyên ngôn Độc lập, chúng ta phải luôn giữ vững độc lập, tự chủ về đường lối chính trị, đường lối phát triển kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Theo đó, cần tăng cường tiềm lực kinh tế trong nước trên cơ sở vật chất - kỹ thuật, khoa học - công nghệ hiện đại, sản suất hàng hóa nội địa có chất lượng cao, bảo đảm cho nền kinh tế phát triển bằng chính khả năng của đất nước. Qua đó, không ngừng nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, tạo điều kiện để các thành phần kinh tế phát triển đảm bảo đúng định hướng và tính độc lập, tự chủ cao. Từ đó, tạo tiềm lực quan trọng để xây dựng, phát triển đất nước, nâng cao đời sống cho nhân dân. Đồng thời, kiên định, sáng tạo xử lý, đấu tranh bảo vệ các lợi ích quốc gia - dân tộc trong bối cảnh quan hệ quốc tế phức tạp, nhất là khi chúng ta đang đẩy mạnh các hoạt động đối ngoại song phương và đa phương, nhằm giữ gìn môi trường hoà bình cho công cuộc đổi mới hiện nay.

Để giữ vững quyền độc lập, tự do theo tư tưởng của Tuyên ngôn, trong tình hình hiện nay, cần tiếp tục phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Theo đó, cần quy tụ hơn 90 triệu người Việt Nam ở trong nước và cộng đồng người Việt sinh sống ở nước ngoài, trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do Đảng lãnh đạo, để khơi dậy ý chí, khát vọng của dân tộc, ra sức phấn đấu vì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Để thực hiện, cần tiến hành nhiều giải pháp đồng bộ, trong đó chú trọng tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng với trọng tâm là đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ Đảng, gắn với kiên quyết, kiên trì chống lại hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Quá trình đó phải có quyết tâm chính trị cao, nỗ lực lớn; phát huy sự chủ động, sáng tạo và sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, của nhân dân; trong đó cán bộ lãnh đạo, quản lý, trước hết là cán bộ cấp cao, cán bộ chủ chốt, người đứng đầu các cấp là nòng cốt; thực hiện đúng như lời dạy của V.I. Lê-nin: “Không ai có thể tiêu diệt được chúng ta, ngoài những sai lầm của bản thân chúng ta... Nếu chúng ta do sai lầm mà gây ra sự chia rẽ thì tất cả sẽ sụp đổ”5, để xây dựng Đảng ta thực sự trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức.

Tư tưởng về quyết tâm sắt đá để bảo vệ nền độc lập, tự do trong Tuyên ngôn đòi hỏi chúng ta phải tăng cường tiềm lực quốc phòng - an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới. Theo đó, cần tăng cường tuyên truyền, giáo dục tinh thần yêu nước, ý thức dân tộc, trách nhiệm và nghĩa vụ bảo vệ chủ quyền, lợi ích quốc gia, làm cho mọi người hiểu rõ những thách thức lớn tác động trực tiếp đến nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời, có sự chuẩn bị chu đáo về “tinh thần và lực lượng” để lo giữ nước từ khi nước chưa nguy. Tăng cường sức mạnh quốc phòng, an ninh cả về tiềm lực và thế trận. Xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc trong thực hiện chiến lược bảo vệ Tổ quốc. Xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có số lượng hợp lý, chất lượng tổng hợp và sức chiến đấu cao, đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình hiện nay.

Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 đến nay đã hơn bảy thập kỷ, nhưng vẫn trường tồn cùng dân tộc. Chính thời gian càng làm cho Tuyên ngôn sâu đậm thêm những giá trị lịch sử và hiện thực, tiếp tục định hướng cho dân tộc Việt Nam kiên định phấn đấu thực hiện thắng lợi mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Đại tá, PGS, TS. NGUYỄN XUÂN TÚ, Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng
______________

1 - Hồ Chí Minh - Toàn tập, Tập 4, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 1.

2, 3, 4 - Sđd, tr. 1, 1, 3.

5 - V.I. Lê-nin - Toàn tập, Tập 42, Nxb Tiến bộ, M. 1977, tr. 311.

Ý kiến bạn đọc (0)

"Sự kiện Vịnh Bắc Bộ" năm 1964 và bài học Chiến thắng trận đầu của quân, dân miền Bắc
Ngày 05-8-1964, với việc dựng lên “sự kiện Vịnh Bắc Bộ”, đế quốc Mỹ đã phát động cuộc chiến tranh đánh phá miền Bắc bằng không quân và hải quân, hòng đè bẹp ý chí chiến đấu của nhân dân Việt Nam. Song, chúng đã bị quân và dân miền Bắc giáng trả những đòn thích đáng, với những nét nghệ thuật đặc sắc.