Nghiên cứu - Tìm hiểu Lịch sử Quân sự Việt Nam

QPTD -Thứ Bảy, 14/12/2019, 16:47 (GMT+7)
Quân đội nhân dân Việt Nam với nhiệm vụ xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân

Thấm nhuần truyền thống dựng nước và giữ nước của dân tộc, trong Tuyên ngôn Độc lập ngày 02-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kêu gọi toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập. Đó chính là tư tưởng, đường lối chỉ đạo xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân bảo vệ Tổ quốc. Trong đó, Quân đội nhân dân đóng vai trò nòng cốt đối với nhiệm vụ quan trong này.

Dưới sự lãnh đạo sáng suốt và tài tình của Đảng, ngay từ những ngày đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, mọi hoạt động của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, của cả hệ thống chính trị đều nhằm thực hiện tốt công tác quốc phòng, quân sự: “Mọi việc phải nhằm vào điểm làm cho kháng chiến thắng lợi”1. Thực hiện nghiêm sự chỉ đạo đó, các hoạt động xây dựng, triển khai và bố trí các đơn vị bộ đội chủ lực, lực lượng vũ trang tại chỗ (tự vệ chiến đấu, dân quân du kích, công an vũ trang) và nhân dân trên từng địa bàn nhanh chóng được hoàn thành - cơ sở khoa học, điều kiện tiên quyết để ngăn chặn, đánh bại các trận càn, những cuộc hành binh của quân viễn chinh Pháp. Nổi bật như: cuộc chiến đấu 60 ngày đêm bảo vệ Thành Hà Nội (cuối năm 1946) của Trung đoàn Thủ Đô cùng lực lượng vũ trang tại chỗ và nhân dân Hà Nội. Hoặc, việc tạo lập thế trận phản công linh hoạt của Bộ Tổng Chỉ huy trong Chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông năm 1947, góp phần quyết định làm nên thắng lợi vang dội, đánh bại cuộc tiến công chiến lược của thực dân Pháp lên vùng Chiến khu Việt Bắc, giữ vững căn cứ địa cách mạng, bảo vệ an toàn cơ quan đầu não kháng chiến.

Thực tiễn đó cho thấy, tuy các hoạt động quốc phòng trong thời kỳ này chủ yếu tập trung vào các hoạt động quân sự bảo vệ căn cứ địa cách mạng, hậu phương kháng chiến, giành và giữ dân, mở rộng vùng giải phóng,... nhưng đã khẳng định hiệu quả to lớn về tư tưởng chỉ đạo xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân bảo vệ đất nước; trong đó, các đơn vị Vệ quốc đoàn, các Chi bộ Nam tiến, bộ đội chủ lực của Bộ và các khu,... giữ vai trò là lực lượng chủ yếu, cùng với lực lượng vũ trang tại chỗ làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc.

Bước sang cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, thực hiện đường lối chiến lược về xây dựng Quân đội, củng cố quốc phòng của Đảng, Tổng Quân ủy chỉ đạo toàn quân hoàn thành chuyển quân tập kết theo Hiệp định Giơ-ne-vơ. Đồng thời, khẩn trương chấn chỉnh tổ chức biên chế, cải tiến vũ khí, trang bị, đẩy mạnh thực hiện kế hoạch xây dựng, phát triển lực lượng vũ trang ba thứ quân, trọng tâm là xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, tiến lên chính quy, hiện đại, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ “Bảo vệ công cuộc củng cố và xây dựng miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội; bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ và an ninh của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa,... sẵn sàng đập tan mọi âm mưu xâm lược của chủ nghĩa đế quốc, chủ yếu là đế quốc Mỹ và tay sai”2. Cùng với phát triển lực lượng lục quân chính quy và các đơn vị binh chủng, Quân chủng Hải quân, Quân chủng Phòng không - Không quân nhanh chóng được kiện toàn về tổ chức3, xây dựng, phát triển và triển khai bố trí lực lượng theo kế hoạch phòng thủ thống nhất, hình thành thế trận bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa cả trên bộ, trên biển và trên không. Vì thế, mặc dù kẻ địch sử dụng nhiều thủ đoạn xảo trá để tạo cớ, hay dựa vào sức mạnh vượt trội của vũ khí, trang bị, phương tiện chiến tranh hiện đại, mở rộng chiến tranh đánh phá miền Bắc bằng hải quân, không quân,... nhưng đều bị đánh bại, bởi thế trận quốc phòng toàn dân vững chắc ở miền Bắc đã nhanh chóng chuyển thành thế trận chiến tranh nhân dân phát triển.

Ở miền Nam, thực hiện cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân bằng bạo lực vũ trang, hệ thống chỉ huy quân sự được củng cố, ngày càng phát triển ở các cấp. Đặc biệt, với sự ra đời của các đơn vị bộ đội chủ lực Miền (B2), Khu 5 và sự chi viện sức người, sức của từ hậu phương lớn miền Bắc, quân, dân miền Nam đã khôn khéo từng bước tạo lập thế trận vững chắc, hiểm hóc và rộng khắp, đánh bại các cuộc càn quét, các chiến dịch,… của địch ra vùng giải phóng. Giai đoạn cuối cuộc kháng chiến, Quân đội ta đã xây dựng được các sư đoàn chủ lực cơ động mạnh, đứng vững trên các địa bàn chiến lược, sau đó phát triển thành các quân đoàn, binh chủng, có thể tiến hành tác chiến hiệp đồng quân chủng, binh chủng quy mô lớn, tạo thế, lực, thời cơ chín muồi, có một không hai để tiến hành cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

Sau khi đất nước thống nhất, non sông thu về một mối, Quân đội vừa tham gia khắc phục hậu quả chiến tranh, vừa chấn chỉnh tổ chức biên chế, bố trí lại lực lượng trên các vùng, miền, xây dựng, củng cố quốc phòng, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, đồng thời bước vào hai cuộc chiến đấu ở biên giới Tây Nam và phía Bắc. Trong thời kỳ đổi mới, Quân đội thường xuyên nắm chắc tình hình, chủ động tham mưu với Đảng, Nhà nước hoạch định đường lối, hoàn thiện hệ thống pháp luật trong lĩnh vực quốc phòng, quân sự, bảo đảm đồng bộ, thống nhất, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc cả trước mắt và lâu dài. Chủ trương nhất quán của Đảng là đẩy mạnh xây dựng Quân đội “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”; chủ động điều chỉnh thế bố trí chiến lược; kết hợp thế trận tại chỗ với thế trận cơ động, thế trận rộng khắp với thế trận trọng điểm, tập trung cho hướng, khu vực, địa bàn chiến lược; xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, gắn với thế trận an ninh nhân dân và thế trận biên phòng toàn dân vững chắc, sẵn sàng chuyển thành thế trận chiến tranh nhân dân, bảo vệ Tổ quốc. Từ thực tiễn trên, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm đó là:

1. Tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với Quân đội trong xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân. Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân vững chắc là nội dung quan trọng hàng đầu, là quan điểm chỉ đạo xuyên suốt và nhất quán của Đảng ta trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc; trong đó, Quân đội nhân dân được xác định là lực lượng nòng cốt thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chiến lược này. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Quân đội ta không ngừng được phát triển cả về số lượng, chất lượng, vũ khí, trang bị và kinh nghiệm tác chiến. Nếu như trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, thế trận quốc phòng toàn dân do Quân đội tạo lập chủ yếu để bảo vệ các khu căn cứ địa, hậu phương kháng chiến, vùng giải phóng,… thì trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Quân đội, nòng cốt là các sư đoàn chủ lực tinh nhuệ, các quân chủng, binh chủng được trang bị vũ khí hiện đại đã phối hợp chặt chẽ với các lực lượng vũ trang và nhân dân địa phương tạo lập thế trận quốc phòng toàn dân vững chắc, bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa, trước những cuộc tiến công của địch trên mọi môi trường tác chiến. Trước yêu cầu ngày càng cao của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, việc giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với Quân đội và sự nghiệp quốc phòng, an ninh không chỉ là nguyên tắc, mà còn là giải pháp quan trọng, hữu hiệu nhất để xây dựng Quân đội “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”; trong đó, tập trung xây dựng một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại, bảo đảm cho Quân đội giữ vững vai trò là lực lượng nòng cốt trong xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân vững chắc, bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.

2. Chủ động nghiên cứu, dự báo sát, đúng tình hình; điều chỉnh thế bố trí lực lượng, sẵn sàng chiến đấu, không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống. Với vai trò là lực lượng nòng cốt thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, Quân đội luôn nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, thường xuyên nắm chắc tình hình, chủ động nghiên cứu, dự báo sát, đúng âm mưu, thủ đoạn của địch, kịp thời tham mưu với Đảng, Nhà nước định ra phương hướng xây dựng, phát triển lực lượng vũ trang; điều chỉnh thế bố trí lực lượng, phương tiện chiến tranh, hình thành thế trận quốc phòng toàn dân vững chắc, rộng khắp, hiểm hóc, liên hoàn, có trọng tâm, trọng điểm, đảm bảo đánh thắng địch trong mọi tình huống.

Thắng lợi trong Chiến dịch Phòng không năm 1972 của quân, dân miền Bắc là minh chứng của sự kết hợp tài tình giữa nghiên cứu, dự báo chính xác âm mưu, thủ đoạn tác chiến của không lực Hoa Kỳ với việc chủ động tổ chức, sử dụng lực lượng, bố trí đội hình chiến đấu của lực lượng phòng không ba thứ quân, hình thành thế trận phòng không rộng khắp, vững chắc, linh hoạt - “thế trận thiên la địa võng” bảo vệ miền Bắc, trọng điểm là Thủ đô Hà Nội. Nhờ đó, trong suốt 72 ngày đêm chiến đấu kiên cường, quân và dân miền Bắc đã đập tan cuộc tập kích đường không chiến lược chủ yếu bằng máy bay B-52 của Mỹ vào Hà Nội, Hải Phòng và một số địa bàn lân cận, làm nên chiến thắng “Điện Biên Phủ trên không”, buộc đế quốc Mỹ phải ngồi vào bàn đàm phán, ký Hiệp định Pa-ri, rút hết quân về nước.

3. Tích cực xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, sẵn sàng chuyển thành thế trận chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc. Quốc phòng và an ninh là hai lĩnh vực trọng yếu của quốc gia, có tác động trực tiếp đến nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Do đó, ngay khi Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập, Đảng ta đã chú trọng lãnh đạo, chỉ đạo Quân đội nhân dân và Công an nhân dân cần phối hợp chặt chẽ, đập tan mọi âm mưu phản động, chống phá chính quyền và hành động xâm lược của thực dân Pháp. Sự phối hợp này được thể hiện rõ nét qua sự kết hợp giữa việc tạo lập thế trận phòng thủ với công tác phòng gian, bắt gián điệp, tiêu diệt biệt kích, thám báo, bảo vệ vững chắc miền Bắc trước âm mưu mở rộng chiến tranh của đế quốc Mỹ.

Ngày nay, hòa bình, hợp tác, phát triển vẫn là xu thế chủ đạo, nhưng những nguy cơ, thách thức và đe dọa đến quốc phòng, an ninh vẫn hết sức phức tạp; chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, tranh chấp tài nguyên, chủ quyền lãnh thổ, các mối đe dọa an ninh phi truyền thống,… có chiều hướng gia tăng. Đối với nước ta, các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh hoạt động “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, “phi chính trị hóa”, “dân sự hóa” Quân đội,… nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội và công tác quốc phòng, an ninh, làm mất vai trò nòng cốt của Quân đội đối với công tác quốc phòng. Vì vậy, để bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong mọi tình huống, cần tiếp tục xây dựng Quân đội “tinh, gọn, mạnh”, làm cơ sở để xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân vững chắc ngay trong thời bình, sẵn sàng chuyển thành thế trận chiến tranh nhân dân khi có chiến tranh, bảo vệ Tổ quốc.

Thiếu tướng, TS. NGUYỄN HOÀNG NHIÊN, Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam

_____________

1 - Hồ Chí Minh - Toàn tập, Tập 6, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 15.

2 - Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam - Bộ Quốc phòng (1945-2000) - Biên niên sự kiện, Nxb QĐND, H. 2003, tr. 198, 199.

3 - Ngày 22-10-1963, Quân chủng Phòng không - Không quân được thành lập, trên cơ sở hợp nhất Bộ Tư lệnh Phòng không và Cục Không quân. Ngày 03-01-1964, Cục Hải quân đổi tên thành Bộ Tư lệnh Hải quân.

Ý kiến bạn đọc (0)

Quân tình nguyện Việt Nam - nòng cốt của liên minh đoàn kết chiến đấu Việt Nam - Lào
Ngày 30/10/1949, Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương quyết định thành lập Quân tình nguyện tại Lào, đánh dấu sự phát triển mới của liên minh đoàn kết chiến đấu Việt Nam - Lào; đồng thời, khẳng định đường lối, quan điểm đúng đắn của Đảng ta trong thực hiện nghĩa vụ quốc tế.