Thứ Bảy, 23/11/2024, 19:07 (GMT+7)
Nghiên cứu - Tìm hiểu Lịch sử Quân sự Việt Nam
Dưới sự lãnh đạo của Trần Quốc Tuấn và Bộ Thống soái, cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông lần thứ 3 (1288) của quân và dân nhà Trần giành thắng lợi vang dội, đập tan mưu đồ xâm lược Đại Việt của giặc. Chiến thắng là kết quả của nhiều yếu tố, trong đó có sự vận dụng linh hoạt, sáng tạo kế “dĩ dật đãi lao”- lấy gần chờ xa, lấy khỏe chờ mệt, lấy no chờ đói.
Khi quân Nguyên - Mông xâm phạm ải Phú Lương (Lạng Sơn), mở đầu cuộc xâm lược Đại Việt lần thứ 3, vua Trần Nhân Tông hỏi Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn về thế giặc năm nay ra sao? Trần Quốc Tuấn điềm tĩnh trả lời: “Nay nếu nó lại sang thì quân ta đã quen việc đánh dẹp, mà quân họ lại ngại về đi xa; vả lại họ đã cạch sự thất bại của Hằng và Quán, không có lòng chiến đấu nữa. Cứ ý thần xem thì tất đánh tan được”1; đồng thời khẳng định: “Năm nay thế giặc dễ đánh”2. Đây không chỉ là câu trả lời nhằm làm an lòng Vua của một vị đại thần, mà còn là sự hiến kế, nhận định, đánh giá có cơ sở về tương quan lực lượng giữa ta và địch của một nhà chính trị - quân sự kiệt xuất.
Luận về đánh quân giặc đi xa, trong Thiên Quân tranh - Binh pháp Tôn Tử viết: người giỏi dùng binh phải lấy sự mạnh khỏe để đối phó với cái mệt mỏi của đối phương; chuẩn bị đầy đủ binh lực, làm cho đối phương khó khăn, nhuệ khí chiến đấu giảm sút lúc đó mới ra tay, một đòn là hạ được giặc - đó chính là kế “dĩ dật đãi lao”. Là người “am hiểu binh pháp”, kết hợp nghiên cứu thấu đáo hai cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông trước đó, Trần Quốc Tuấn đã cùng với Bộ Thống soái nhà Trần vận dụng linh hoạt, sáng tạo kế “dĩ dật đãi lao”, chỉ huy quân và dân đập tan cuộc tiến công xâm lược Đại Việt lần thứ 3 của quân xâm lược Nguyên - Mông.
Trước hết, tích cực chuẩn bị kháng chiến, bố trí thế trận chống giặc hiểm, chắc. Với truyền thống yêu nước nồng nàn, vua tôi đồng lòng, anh em hòa mục cùng kinh nghiệm phong phú có được từ hai cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông thắng lợi trước đó, quân và dân Đại Việt bước vào cuộc kháng chiến lần thứ 3 với thế chủ động và lòng tự tin cao độ. Khi được tin quân Nguyên - Mông lăm le xâm lược Đại Việt, nhà Trần đã gấp rút chuẩn bị mọi mặt kháng chiến. Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn được nhà vua tin cậy cử làm Quốc công tiết chế, đốc thúc, kiểm tra việc chuẩn bị kháng chiến của triều đình, chỉ đạo, chỉ huy vương hầu, chư tướng, cùng quân và dân cả nước đánh giặc. Tháng 7/1286 vua Trần lệnh cho các vương hầu, tôn thất tuyển chọn thêm binh lính, chấn chỉnh lực lượng, luyện tập quân sĩ; gấp rút chế tạo, tu sửa khí giới, chiến thuyền; giao cho các tướng trấn giữ, tiêu hao, tiêu diệt quân giặc ở một số hướng, khu vực hiểm yếu: Trần Quốc Toản và Nguyễn Khoái vùng Lạng Sơn, Trần Khánh Dư vùng biển Vân Đồn, Trần Nhật Duật vùng Bạch Hạc, v.v. Sau một thời gian chuẩn bị, tháng Mười âm lịch năm đó (19/10 - 16/11/1286) một cuộc luyện tập lớn đã được tiến hành, nhằm đánh giá khả năng chuẩn bị, sẵn sàng đánh giặc của quân và dân ta.
Cùng với việc chuẩn bị đầy đủ binh lực, lương thảo, việc bố trí thế trận chống giặc cũng được Trần Quốc Tuấn và Bộ Thống soái chú trọng. Do nắm chắc kế hoạch xâm lược của quân Nguyên - Mông cũng như thế và lực của quân ta, Trần Quốc Tuấn đã không bố trí đại bản doanh và quân chủ lực triều đình ở các khu vực gần biên giới hay trên đường đại quân của giặc có thể tiến về Thăng Long. Để tiện việc cơ động đánh giặc trên cả đường bộ và đường biển, Ông đã bố trí một lực lượng thủy binh quan trọng của quân chủ lực triều đình trong khu vực từ thiên Trường đến Tháp Sơn cùng quân bộ ở giữa Thăng Long và Vạn Kiếp. Để làm chậm bước tiến, sát thương, tiêu hao, tiêu diệt giặc, Ông còn bố trí quân triều đình phối hợp với quân các lộ, phủ và hương binh, dân binh tại các khu vực rừng núi, sông ngòi hiểm trở. Với việc chuẩn bị kháng chiến khẩn trương, nghiêm túc, bố trí thế trận hiểm, chắc, có thế công, thế thủ, thế lui, quân và dân nhà Trần đã có mặt tại các nơi hiểm yếu và dự kiến đón đánh giặc ở một số khu vực cả đường bộ và đường thủy.
Thứ hai, “tránh cái thế hăng hái lúc ban mai, đánh cái khí tàn lụi lúc chiều tà” của giặc. Tiến công xâm lược Đại Việt lần thứ 3, ngoài âm mưu biến nước ta thành quận, huyện, quân Nguyên - Mông còn muốn rửa nỗi nhục hai lần thất bại trước đó. Để chắc thắng, trước khi xâm lược, vua Nguyên - Mông là Hốt Tất Liệt đã căn dặn tướng, sĩ: không được cho Giao Chỉ là nước nhỏ mà coi thường; không nôn nóng, cay cú, v.v. Nhưng ỷ có quân đông, “tướng hùng” và muốn lập công, Thái tử Thoát Hoan lại “tốc chiến, tốc quyết” hòng bắt sống toàn bộ vua tôi nhà Trần. Hiểu giặc sâu sắc, đồng thời có sự chuẩn bị chu đáo, đầy đủ về lực lượng, thế trận, phương tiện, lương thảo, đặc biệt là niềm tin tuyệt đối vào sức mạnh tinh thần của dân tộc, Trần Quốc Tuấn đã cùng Bộ Thống soái thực hiện lấy khỏe chờ mệt đối phó với quân Nguyên - Mông. Để tránh cái thế hăng hái lúc ban mai của giặc, Ông chỉ huy các đội quân chủ lực rút lui an toàn, chỉ để lại một lực lượng nhỏ ngăn chặn, vừa làm giảm tốc độ tiến công, vừa làm cho chúng chủ quan, coi thường. Khi giặc tiến công Kinh thành Thăng Long, quân triều đình và nhân dân lại tạm thời lui xuống hạ lưu sông Hồng, thực hiện kế “thanh dã” - vườn không, nhà trống. Không bắt được Vua và Bộ Thống soái, cũng không giao chiến được với quân chủ lực nhà Trần, trong khi đó lực lượng lại bị tổn thất đáng kể trên đường tiến công, đã khiến quân giặc mệt mỏi, buộc phải dừng lại củng cố các vùng đã chiếm được. Quân và dân ta tại các nơi giặc chiếm đóng liên tục thực hiện các đợt tiến công nhỏ lẻ, bao vây, chặn giặc để Trần Quốc Tuấn và Bộ Thống soái có thời gian bố trí thế trận phản công tại các khu vực dự kiến lừa, dụ địch vào để đánh trận quyết định. “Điều cốt yếu để đánh được giặc không phải chỉ dùng sức mạnh để chống còn phải dùng thuật để lừa. Hoặc dùng cách lừa của ta mà lừa nó, hoặc nhân cách lừa của nó mà lừa nó, lừa bằng tình, lừa bằng lợi, lừa bằng vụng, lừa bằng khôn, cũng lừa bằng sự lẫn lộn, hư thực, lấy sự lừa của nó để làm cho nó bị lừa, nó lừa thì ta biết”3 để tạo ra bước ngoặt giành thắng lợi trong chiến tranh.
Không thực hiện được mục đích xâm lược, lại bị cô lập, rơi vào tình thế tuyệt vọng vì sợ “lương hết, quân mệt, không biết lấy gì chống đỡ lâu dài”, nên Thoát Hoan vội vàng quyết định rút quân về nước theo hai đường: thủy và bộ hòng phân tán đối phương, hy vọng bảo toàn lực lượng. Nắm bắt chính xác hướng rút quân của địch, Trần Quốc Tuấn đã bố trí đại quân chủ lực tại sông Bạch Đằng để tiêu diệt thủy binh của giặc, đồng thời sử dụng lực lượng khá mạnh cùng với dân binh mai phục trên các ngả đường lên biên giới. Với thế trận hiểm, chắc, khí thế chiến đấu mãnh liệt, chúng ta đã tiến công tiêu diệt toàn bộ đạo thủy quân rút lui trên sông Bạch Đằng và đạo quân rút lui theo đường bộ qua ải Nội Bàng. Việc cùng lúc đánh tan hai đạo quân của giặc trên đường rút chạy là đánh vào cái khí tàn lụi lúc chiều tà, sức chỉ dùng một nửa mà công được gấp đôi. Theo binh pháp Tôn Tử, khi “Quân giặc rút về nước thì không nên đánh chặn, bao vây quân giặc, nên chừa một chỗ hở. Quân giặc đến bước đường cùng thì không nên truy bức”4, song để loại bỏ hoàn toàn ý đồ xâm lược Đại Việt của quân Nguyên - Mông, Trần Quốc Tuấn đã vận dụng linh hoạt binh pháp Tôn Tử, đánh trận quyết định trên sông Bạch Đằng.
Thứ ba, triệt phá, chặn, cắt các đoàn vận tải, tiếp tế lương thảo của giặc. Lương thảo là yếu tố quan trọng bậc nhất bảo đảm sống còn cho đạo quân viễn chinh. Rút kinh nghiệm từ hai lần xâm lược Đại Việt trước, một trong những nguyên nhân thất bại chủ yếu là thiếu lương, lần này, để bảo đảm lương thảo cho khoảng 30 vạn quân, ngoài việc vận chuyển bằng đường bộ, Hốt Tất Liệt còn giao cho Trương Văn Hổ chỉ huy vận chuyển 17 vạn thạch lương bằng đường biển. Để hộ tống cho đoàn thuyền lương này, đồng thời mở một mũi tiến công bằng đường thủy, Hốt Tất Liệt lệnh cho Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp đem 500 thuyền chiến từ Khâm Châu tiến vào Đại Việt. Việc cắt đứt mọi nguồn cung cấp, tiếp tế lương thảo của giặc là điều cực kỳ quan trọng, nên quân, dân nhà Trần đã thực hiện kế “thanh dã” và triệt phá các đoàn lương thảo của chúng.
Cuối tháng 11/1287, quân Nguyên - Mông bắt đầu xâm lược Đại Việt, đội quân do Thoát Hoan chỉ huy sau khi đánh chiếm được Vạn Kiếp ra sức củng cố mọi mặt để tiếp tục đánh chiếm Kinh thành, song nạn thiếu lương thảo lại trở thành mối đe dọa nghiêm trọng đối với chúng. Để bảo đảm sức chiến đấu, giặc đã phải cho quân đi cướp lương thảo trong dân, tuy nhiên chúng đã gặp cảnh vườn không, nhà trống và bị phục kích. Tháng 12/1287, đạo thủy binh do tướng Ô Mã Nhi chỉ huy, hộ tống đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ, xuất phát từ Khâm Châu tiến vào vùng biển Đông Bắc nước ta. Trần Khánh Dư chỉ huy một lực lượng thủy binh chặn đánh, nhưng không thành, nên phải lui quân bảo toàn lực lượng và chuẩn bị mưu, kế đánh trận tiếp theo. Sau khi phân tích, đánh giá tình hình và nhận định: Ô Mã Nhi sẽ chủ quan, khinh địch, cơ động nhanh về hội quân cùng Thoát Hoan ở Vạn Kiếp bỏ lại đoàn thuyền lương phía sau - đây là điểm yếu chí tử của chúng. Trước tình thế đó, Trần Khánh Dư thiết lập thế trận mai phục và chỉ huy đội thủy quân tiến công tiêu diệt toàn bộ đoàn thuyền lương của giặc. Quân ta “bắt được quân lương, khí giới của giặc nhiều không kể xiết, tù binh cũng nhiều”5. Quân giặc vừa thiếu lương ăn, vừa bị đau ốm, lại bị quân và dân nhà Trần tiến công khắp nơi, nên khi hay tin đoàn thuyền lương bị tiêu diệt thì toàn bộ tướng, sĩ tinh thần suy sụp, nhuệ khí chiến đấu giảm sút; trong khi đó, đại quân nhà Trần lực lượng vẫn bảo toàn, nung nấu ý chí, sẵn sàng phản công diệt giặc ngoại xâm. Như vậy, với chiến thắng trên vùng biển Vân Đồn - triệt phá đoàn thuyền lương của giặc, quân và dân nhà Trần đã khiến quân giặc vô cùng tuyệt vọng, hoang mang, lo sợ, đúng như vua Trần Nhân Tông nhận định: “Quân Nguyên cốt trông cậy vào lương thực và vũ khí, nay đã bị ta cướp được cả rồi, thế của nó không tràn ra được nữa… Vậy nên ta thả những tên bị bắt về báo tin với Thoát Hoan, ắt quân của nó tất ngả lòng, bấy giờ phá mới dễ”6.
Nghệ thuật quân sự “lấy gần chờ xa, lấy khỏe chờ mệt, lấy no chờ đói” trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông lần thứ 3 của quân và dân nhà Trần là bài học vô cùng quý giá, cần được nghiên cứu, vận dụng trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc.
Đại tá, TS. NGUYỄN VĂN THANH, Trường Sĩ quan Lục quân 1 ________________
1 - Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb Thời đại, H. 2013, tr. 311.
2 - Sđd, tr. 312.
3 - Binh thư yếu lược, Nxb KHXH, H. 1977, tr. 183.
4 - Binh pháp Tôn tử, Nxb CAND, H. 1994, tr. 114.
5 - Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb Thời đại, H. 2013, tr. 313.
6 - Tìm hiểu chiến lược, chiến thuật thời Trần - Lê, Nxb QĐND, H. 1963, tr. 46.
“Dĩ dật đãi lao”,chống quân Nguyên - Mông lần thứ 3 (1288)
Nét đặc sắc của nghệ thuật vận dụng cách đánh trong Chiến dịch tiến công Tây Sơn Tịnh năm 1966 21/11/2024
Quân tình nguyện Việt Nam - nòng cốt của liên minh đoàn kết chiến đấu Việt Nam - Lào 29/10/2024
Chiến dịch phòng ngự Cánh đồng Chum - Xiêng Khoảng năm 1972 - nét đặc sắc về nghệ thuật sử dụng lực lượng 24/10/2024
Nghệ thuật đánh điểm, diệt viện trong Chiến dịch Bu Prăng - Đức Lập năm 1969 27/09/2024
Nghệ thuật chỉ đạo của Đảng về tạo và nắm thời cơ, giành thắng lợi trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945 19/08/2024
Nghệ thuật đánh trận then chốt quyết định trong Chiến dịch Nông Sơn - Thượng Đức năm 1974 15/07/2024
Nhà Lý kết hợp tiến công quân sự với biện pháp ngoại giao để kết thúc chiến tranh, kiến tạo hòa bình 24/06/2024
Chiến dịch Long Khánh năm 1969 - nét đặc sắc của nghệ thuật tập kích 04/06/2024
Nghệ thuật đánh điểm, diệt viện trong Chiến dịch Trung - Hạ Lào năm 1954 22/04/2024
Nét nổi bật về nghệ thuật đánh trận mở đầu trong Chiến dịch Bắc Tây Nguyên năm 1954 15/02/2024
Chiến dịch phòng ngự Cánh đồng Chum - Xiêng Khoảng năm 1972 - nét đặc sắc về nghệ thuật sử dụng lực lượng
Quân tình nguyện Việt Nam - nòng cốt của liên minh đoàn kết chiến đấu Việt Nam - Lào
Nét đặc sắc của nghệ thuật vận dụng cách đánh trong Chiến dịch tiến công Tây Sơn Tịnh năm 1966