Thứ Sáu, 22/11/2024, 21:44 (GMT+7)
Nghiên cứu - Tìm hiểu Lịch sử Quân sự Việt Nam
Chiến dịch tiến công Bắc Tây Nguyên là chiến dịch đầu tiên ở chiến trường Tây Nguyên có quy mô tương đương cấp quân đoàn, đột phá vào tuyến phòng thủ kiên cố của địch, làm thay đổi cục diện chiến trường, góp phần quan trọng đến thắng lợi của cuộc Tiến công chiến lược năm 1972. Chiến dịch để lại nhiều bài học quý về nghệ thuật quân sự, trong đó có nghệ thuật nghi binh, tạo thế.
Nghiên cứu, nắm chắc tình hình chiến trường miền Nam, tháng 8/1971, Bộ Chính trị quyết định mở cuộc Tiến công chiến lược năm 1972 trên các hướng miền Đông Nam Bộ, Trị Thiên và Tây Nguyên. Ta chủ động mở ba đòn tiến công của quân chủ lực trên các chiến trường lựa chọn, phối hợp với các đòn tiến công và nổi dậy ở nông thôn để phá thế bình định của địch; đồng thời, kết hợp đấu tranh chặt chẽ trên cả ba mặt trận: chính trị, quân sự, ngoại giao, buộc Mỹ phải rút quân và chấp nhận các điều kiện của ta trong đàm phán ở Hội nghị Paris. Qua các nguồn tin tức và phân tích đánh giá kỹ những phán đoán của địch lúc bấy giờ, ta chủ động triển khai một loạt các hoạt động nghi binh trên chiến trường, nhằm “cung cấp” thêm cơ sở dữ liệu để chúng khẳng định các dự kiến của mình là đúng. Thực hiện ý định đó, một kế hoạch nghi binh được Bộ Tổng Tư lệnh hoạch định và giao cho Bộ Tư lệnh các chiến trường tiến hành ngay từ giai đoạn tạo thế. Cụ thể, ý định nghi binh của Bộ Tổng Tư lệnh chủ yếu nhằm lừa địch về hướng, mục tiêu tiến công chiến lược trên ba chiến trường trọng điểm để ta tập trung lực lượng, tạo thế bất ngờ, đồng loạt thực hiện các đòn tiến công chiến lược vào chủ lực địch ở Trị Thiên, Đông Nam Bộ và Tây Nguyên. Theo đó, trên chiến trường Khu 9, ta mở đợt phản công mùa mưa, phá âm mưu chiếm U Minh của địch; Khu 5, ta mở đợt hoạt động Xuân - Hè năm 1971, khôi phục hoạt động chiến tranh nhân dân ở Tây Nguyên; đưa nhiều tổ, đội công tác của Trị Thiên xuống đồng bằng diệt ác ôn, phá đồn bốt và hỗ trợ quần chúng đấu tranh, v.v. Các hoạt động đó vừa nhằm tiêu diệt địch, mở rộng vùng giải phóng, vừa làm chúng không phán đoán đúng ý định chiến lược của ta, đặc biệt là địch không dự kiến chính xác đâu là hướng, mục tiêu chủ yếu ta sẽ tiến công lớn trong năm 1972.
Sau khi nghiên cứu, đánh giá kỹ tình hình chiến trường, ngày 11/3/1972, ta quyết định điều chỉnh hướng phối hợp quan trọng Trị Thiên thành hướng tiến công chiến lược chủ yếu; Đông Nam Bộ và Bắc Tây Nguyên thành hướng phối hợp quan trọng, tạo thành cuộc tiến công chiến lược trên toàn miền Nam. Bộ Tổng Tư lệnh tiếp tục chỉ đạo các hướng chiến lược, các chiến trường trên toàn Miền tăng cường tổ chức hoạt động nghi binh lừa địch, căng kéo, thu hút làm cho địch không thể phán đoán được ý đồ của cuộc Tiến công chiến lược năm 1972. Đây là cuộc đấu trí hết sức cân não giữa ta và địch, nét độc đáo, sáng tạo, linh hoạt của nghệ thuật quân sự Việt Nam. Sự phối hợp đồng bộ, tích cực và hiệu quả của hoạt động nghi binh, góp phần làm cho địch phán đoán sai, ta có thể mở đợt hoạt động trên hướng Tây Nguyên, đánh phá “bình định” ở đồng bằng, nhất là khi “quân địch chờ quân ta tiến công vào dịp Tết Nguyên Đán Nhâm Tý năm 1972, nhưng Tết đã qua mà phía ta không có hoạt động gì lớn”1, cả Mỹ và ngụy đều nhận định ta không có khả năng đánh lớn vào các tuyến phòng ngự vòng ngoài và đô thị đông dân, nên mất cảnh giác. Dẫn đến sai lầm nghiêm trọng, những tháng đầu năm 1972, địch vẫn tiếp tục tăng cường lực lượng phòng giữ thị xã Kon Tum: Lữ đoàn dù 2 thuộc lực lượng tổng dự bị chiến lược từ Sài Gòn ra lập tuyến phòng thủ mới ở điểm cao 1.049, 1.015 phía Tây sông Pô Cô. Trong khi đó, lực lượng chủ lực Quân khu 2 của địch ở Bắc Tây Nguyên hình thành ba cụm phòng ngự, gồm: Đắk Tô - Tân Cảnh, thị xã Kon Tum và thị xã Pleiku. Trong ba cụm phòng ngự đó, Đắk Tô - Tân Cảnh2 không chỉ là trung tâm chỉ huy tập đoàn phòng ngự ở phía Bắc tỉnh Kon Tum, mà còn là nơi xuất phát các cuộc hành quân đánh phá cơ sở kháng chiến và đường vận chuyển chiến lược của ta ở Vùng ngã ba biên giới. Đây là nơi đặt Sở chỉ huy Sư đoàn 22, Trung đoàn 42, khu cố vấn Mỹ và Bộ Chỉ huy Quân khu 2 ngụy. Ở đây, chúng thường duy trì từ 12 đến 14 tiểu đoàn bộ binh, 01 trung đoàn thiết giáp, 03 tiểu đoàn pháo binh. Riêng thị trấn Tân Cảnh nằm giữa ngã ba đường số 14 và đường số 18, nơi có khoảng 5.000 dân sinh sống, do hai đại đội cảnh sát và bảo an chiếm giữ3.
Căn cứ vào nhiệm vụ được Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương giao, Bộ Tư lệnh Chiến dịch dự kiến kế hoạch tiến công tiêu diệt lực lượng địch phòng ngự ở Tây Nguyên chia thành hai giai đoạn: nghi binh, tạo thế và tiến công tiêu diệt địch. Trong đó, tiến công tiêu diệt địch là chính cũng được chia làm hai giai đoạn: giai đoạn 1: tiến công thị trấn Tân Cảnh, căn cứ Sư đoàn 22, sau đó sẽ xác định thêm; giai đoạn 2: tiến công giải phóng thị xã Kon Tum và sau đó căn cứ tình hình sẽ phát triển xuống Pleiku. Quyết tâm Chiến dịch là chưa đột phá ngay vào tuyến phòng ngự, phòng thủ của địch mà kéo địch ra ngoài để tiêu diệt chúng ở khu vực Tây sông Pô Cô và Bắc Võ Định, làm thay đổi so sánh lực lượng có lợi cho ta, sau đó sẽ tiến công vào các khu vực phòng thủ của địch từ Đắk Tô - Tân Cảnh đến thị xã Kon Tum. Để giữ bí mật mở đường và triển khai binh lực, hỏa lực của Chiến dịch về hướng Đắk Tô - Tân Cảnh, Bộ Tư lệnh sử dụng Sư đoàn 320 gây áp lực trực tiếp với địch ở Kon Tum, đồng thời sử dụng một số trung đoàn độc lập chốt chặn, đánh phá giao thông trên trục đường số 14, chia cắt địch ở Kon Tum với các khu vực. Các hoạt động đó càng làm cho địch tin rằng, thị xã Kon Tum là mục tiêu tiến công trước mắt của chủ lực ta, nên chúng vội vã tăng cường lực lượng đến phòng giữ Kon Tum. Không những thế, chúng còn điều Sư đoàn dù trong lực lượng tổng dự bị chiến lược án ngữ tại điểm cao 1.049, 1.015 phía Tây sông Pô Cô, bị ta đánh thiệt hại nặng hai tiểu đoàn.
Đầu tháng 3/1972, khi thời điểm cuộc Tiến công chiến lược trên chiến trường miền Nam nói chung, chiến trường Tây Nguyên nói riêng đang tới gần, quân và dân Tây Nguyên tích cực hoàn tất mọi mặt chuẩn bị Chiến dịch. Để đề phòng cuộc tiến công của ta, Bộ Chỉ huy Quân khu 2 ngụy vừa tung thám báo, biệt kích thăm dò, vừa cho máy bay đánh phá hệ thống đường vận chuyển chiến lược, chiến dịch của ta. Vì vậy, từ ngày 22/3/1972, cùng với việc chỉ đạo các hướng, mũi khẩn trương hoàn tất mọi mặt cho cuộc tiến công, Bộ Tư lệnh Chiến dịch còn sử dụng Trung đoàn 28 và 95 cùng một số trung đoàn độc lập phối hợp với bộ đội địa phương và dân quân, du kích đánh phá, chặn, cắt giao thông trên đường số 14 ở phía Bắc và Nam thị xã Kon Tum, thực hiện tạo thế bao vây, chia cắt chiến dịch. Bộ đội Đặc công và lực lượng pháo cối bí mật, luồn sâu vào phòng tuyến của đối phương, thực hiện các trận tập kích vào trận địa hỏa lực, cơ sở hậu cần. Sư đoàn 2 (Quân khu 5) sử dụng một tiểu đoàn hoạt động nghi binh, thu hút địch ở Đắk Tô, tạo điều kiện cho Trung đoàn 1 - Sư đoàn 2 và Trung đoàn 24 chuẩn bị chiến trường, hiệp đồng tác chiến, tiến công Sở Chỉ huy Sư đoàn 22 và Sở Chỉ huy Trung đoàn 42 quân ngụy ở cụm cứ điểm Đắk Tô - Tân Cảnh. Các đơn vị Công binh cũng được lệnh nối thông những đoạn đường dã chiến vào cách vị trí địch từ 05 km đến 06 km, bảo đảm cho xe tăng, pháo và xe cơ giới cơ động trên hướng vu hồi Chiến dịch.
Hơn nửa tháng thực hiện bước một Chiến dịch, tình hình chiến trường Bắc Tây Nguyên chuyển biến ngày càng có lợi cho ta, hầu hết tuyến phòng thủ phía Tây sông Pô Cô của địch bị Sư đoàn 320 đập tan, cánh cửa đột phá vào những mục tiêu chủ yếu đã được mở. Ở phía Đông, Sư đoàn 2 và các đơn vị phối thuộc đã tạo lập được thế trận chiến dịch tiến công vững chắc. Trong lúc địch bị thu hút và lo đối phó với ta ở hướng Kon Tum thì bất ngờ ngày 24/4/1972, bộ binh và xe tăng của ta tiến hành đột phá tuyến phòng thủ Đắk Tô - Tân Cảnh, gây tổn thất nặng cho Sư đoàn 22, Trung đoàn 4 Thiết giáp và 2 tiểu đoàn pháo binh ngụy, tạo điều kiện để Chiến dịch phát triển tiến công, đánh các trận tiếp theo. Khi ta thực hiện bước tiếp theo của Chiến dịch là phát triển xuống tiến công thị xã Kon Tum, tuy nhiên do ta cơ động lực lượng chậm, không tận dụng được thời cơ, các hướng hiệp đồng không chặt, do đó địch có điều kiện củng cố lực lượng, tổ chức ngăn chặn và không kích liên tục nên các đợt tiến công của ta đều không thành công, vì vậy, Bộ Tư lệnh quyết định kết thúc Chiến dịch.
Chiến dịch tiến công Bắc Tây Nguyên năm 1972 tuy còn một số hạn chế, nhưng cơ bản đã thực hiện được ý định tác chiến chiến lược, làm thay đổi cục diện chiến trường Tây Nguyên, tạo hành lang nối thông giữa Mặt trận Trị Thiên, Tây Nguyên với miền Đông Nam Bộ, góp phần phát triển thế và lực của chiến tranh cách mạng miền Nam trong cuộc Tiến công chiến lược năm 1972. Trong Chiến dịch này, điểm nổi bật là ta đã ngụy trang khéo léo, nghi binh lừa địch, tổ chức tốt kế hoạch mở đường cho xe tăng, pháo và xe cơ giới cơ động, đồng thời tổ chức hiệp đồng tác chiến giữa các binh chủng chặt chẽ, đưa Sở Chỉ huy Sư đoàn 2 vào sát trận địa. Mặc dù, địch biết là ta làm đường, di chuyển lực lượng, nhưng chúng vẫn lầm tưởng là đường chưa làm xong - đây chính là thành công lớn trong hoạt động nghi binh, tạo thế của Bộ Tư lệnh Chiến dịch. Ngoài việc tự tổ chức nghi binh, Chiến dịch còn được cấp trên nghi binh ở hướng khác, chiến trường khác, tạo điều kiện thực hiện ý định tác chiến. Các hoạt động đó, là tiền đề quan trọng quyết định kết quả trận mở đầu Chiến dịch, nhất là trong điều kiện địch phòng ngự vững chắc, có hỏa lực mạnh, khả năng trinh sát rộng, sức cơ động cao và chủ động đề phòng từ trước. Hoạt động nghi binh, tạo thế không chỉ góp phần bảo đảm Chiến dịch hoàn thành mọi công tác chuẩn bị, mà quan trọng hơn là tạo điều kiện thuận lợi nhất để ta tập trung và phát huy tối đa sức mạnh của binh lực, hỏa lực tác chiến.
Chiến dịch tiến công Bắc Tây Nguyên năm 1972 để lại nhiều bài học về nghệ thuật quân sự, trong đó, nổi bật là nghệ thuật nghi binh, tạo thế. Đây là những kinh nghiệm quý, cần được nghiên cứu, vận dụng trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc.
Đại tá, PGS, TS. HOÀNG XUÂN NHIÊN, Trung tá TRẦN HỮU TRUNG _______________
1 - Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam - Lịch sử nghệ thuật chiến dịch Việt Nam trong 30 năm chiến tranh chống Pháp, chống Mỹ (1945 - 1975), Tập 2, Nxb QĐND, H. 1994, tr. 188.
2 - Căn cứ Đắk Tô - Tân Cảnh nằm ở phía Bắc thị xã Kon Tum, cách khoảng 60 km.
3 - Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam - Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 - 1975), Tập VII, Nxb CTQG, H. 2013, tr. 109.
Nét đặc sắc của nghệ thuật vận dụng cách đánh trong Chiến dịch tiến công Tây Sơn Tịnh năm 1966 21/11/2024
Quân tình nguyện Việt Nam - nòng cốt của liên minh đoàn kết chiến đấu Việt Nam - Lào 29/10/2024
Chiến dịch phòng ngự Cánh đồng Chum - Xiêng Khoảng năm 1972 - nét đặc sắc về nghệ thuật sử dụng lực lượng 24/10/2024
Nghệ thuật đánh điểm, diệt viện trong Chiến dịch Bu Prăng - Đức Lập năm 1969 27/09/2024
Nghệ thuật chỉ đạo của Đảng về tạo và nắm thời cơ, giành thắng lợi trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945 19/08/2024
Nghệ thuật đánh trận then chốt quyết định trong Chiến dịch Nông Sơn - Thượng Đức năm 1974 15/07/2024
Nhà Lý kết hợp tiến công quân sự với biện pháp ngoại giao để kết thúc chiến tranh, kiến tạo hòa bình 24/06/2024
Chiến dịch Long Khánh năm 1969 - nét đặc sắc của nghệ thuật tập kích 04/06/2024
Nghệ thuật đánh điểm, diệt viện trong Chiến dịch Trung - Hạ Lào năm 1954 22/04/2024
Nét nổi bật về nghệ thuật đánh trận mở đầu trong Chiến dịch Bắc Tây Nguyên năm 1954 15/02/2024
Chiến dịch phòng ngự Cánh đồng Chum - Xiêng Khoảng năm 1972 - nét đặc sắc về nghệ thuật sử dụng lực lượng
Quân tình nguyện Việt Nam - nòng cốt của liên minh đoàn kết chiến đấu Việt Nam - Lào
Nét đặc sắc của nghệ thuật vận dụng cách đánh trong Chiến dịch tiến công Tây Sơn Tịnh năm 1966