QPTD -Thứ Hai, 27/01/2020, 18:18 (GMT+7)
Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về giữ vững độc lập, tự chủ và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế

Nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về mối quan hệ giữa giữ vững độc lập, tự chủ và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế

Đảng Cộng sản Việt Nam nhận thức sâu sắc rằng, độc lập, tự chủ và hội nhập quốc là những vấn đề mang tính khách quan, phản ánh tính quy luật của sự phát triển đối với mọi quốc gia, dân tộc trong thời đại ngày nay, Việt Nam không nằm ngoài vấn đề có tính quy luật ấy. Độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế là hai thành tố đặt trong mối quan hệ biện chứng, quan hệ nhân quả. Giữ vững độc lập, tự chủ là điều kiện tiên quyết để hội nhập quốc tế thành công, bảo đảm cho Việt Nam hòa nhập nhưng không bị hòa tan; đổi mới nhưng không đổi hướng. Ngược lại, hội nhập quốc tế đầy đủ, khai thác tối đa mọi nguồn lực của bên ngoài có tầm quan trọng, để cùng với nguồn lực có tính quyết định ở bên trong, tạo động lực mới cho sự phát triển nhanh, bền vững, góp phần bảo vệ lợi ích cốt lõi của quốc gia - dân tộc là hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.

Hiện nay, khi toàn cầu hóa đạt tới trình độ phát triển chưa từng có, kéo theo tất cả các nước tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế, thì giữ vững độc lập, tự chủ, chủ quyền quốc gia và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế được đặt ra với tầm quan trọng đặc biệt, liên quan đến sự tồn tại, phát triển hay thoái bộ của mỗi quốc gia - dân tộc. Điều này dễ hiểu vì giữ vững độc lập, tự chủ và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế là mối quan hệ cơ bản, đa diện, đa chiều trong khi tình hình thế giới diễn biến hết sức nhanh chóng, phức tạp, khó dự báo. Việt Nam đang hội nhập sâu rộng vào tất cả các lĩnh vực đời sống quốc tế, nhất là việc ký kết, thực hiện hàng loạt các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới (FTA), đòi hỏi phải giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa giữ vững độc lập, tự chủ và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế và đổi mới, linh hoạt, mềm dẻo hơn, có bản lĩnh và trí tuệ hơn. Giải quyết tốt mối quan hệ này, Việt Nam sẽ tạo ra khả năng thích ứng cao hơn và ít bị tổn thương trước những biến động của thời cuộc; nhờ đó, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tạo điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh, nâng tầm cao uy tín, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.

Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định trong thời kỳ mới, nếu tự khép kín, tự cô lập mình với thế giới thì không thể phát triển; không thể tranh thủ nguồn lực bên ngoài, các cơ hội mà cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư đem lại. Để tiếp tục đổi mới thành công, Việt Nam rất coi trọng và tranh thủ tối đa sự ủng hộ, giúp đỡ của bạn bè quốc tế để phát triển nhanh, bền vững đất nước; thực hiện chính sách ngoại giao thân thiện, rộng mở. “Việt Nam chủ trương không tham gia liên minh quân sự; không liên kết với nước này để chống nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế”1; không muốn gây đối đầu, căng thẳng trong quan hệ, hội nhập quốc tế, nhất là khi Việt Nam đã trở thành thành viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, có tiếng nói quan trọng không thể thiếu trong cộng đồng quốc tế.

Giữ vững độc lập, tự chủ và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế là kết quả phát triển nhận thức, tư duy lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ Đại hội lần thứ IX (4-2001), lần đầu tiên, Đảng Cộng sản Việt Nam sử dụng cụm từ “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế”, đánh dấu sự thay đổi lớn về triết lý phát triển, mở cửa và hội nhập của Việt Nam. Trên cơ sở đó, Đảng Cộng sản Việt Nam nêu rõ quan điểm: xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ trong bối cảnh toàn cầu hóa, khu vực hóa; không để nền kinh tế Việt Nam bị lệ thuộc vào nước ngoài. Đại hội lần thứ XII của Đảng tiếp tục nhấn mạnh mối quan hệ “giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế”, coi đó là một trong chín mối quan hệ lớn, “phản ánh quy luật đổi mới và phát triển” của Việt Nam.

2. Thực tiễn và kinh nghiệm bước đầu về giải quyết mối quan hệ giữa giữ vững độc lập, tự chủ và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế

Nhận thức đúng, quán triệt sâu sắc và xử lý thành công mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế trong hơn 30 năm đổi mới đất nước đã góp phần giúp Việt Nam đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Việt Nam đã tiến vào chiều sâu mới trên quỹ đạo hội nhập quốc tế. Hiện nay, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 187 nước; có quan hệ kinh tế với 223 quốc gia và vùng lãnh thổ. Quan hệ của Việt Nam với tất cả các nước ngày càng phát triển tốt đẹp, đi vào thực chất, hiệu quả thông qua việc xác lập khuôn khổ đối tác toàn diện với 10 nước và đối tác chiến lược với 15 nước. Thực tế khẳng định rằng, trong những năm qua, giữ vững độc lập, tự chủ và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế của Việt Nam luôn phù hợp với xu thế vận động, biến đổi của thế giới đương đại; thể hiện ý chí của nhân dân Việt Nam, trở thành giá trị cốt lõi thiêng liêng của dân tộc Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam luôn kiên định lập trường, quan điểm về giữ vững độc lập, tự chủ và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế; coi đó là vấn đề có tính nguyên tắc, nhất quán, có tầm quan trọng xuyên suốt, mang ý nghĩa sống còn của cách mạng Việt Nam.

Trước hết là độc lập, tự chủ về chính trị, giữ vững mục tiêu chính trị trong quá trình hội nhập quốc tế để không bị “hòa tan”, lệ thuộc. Nếu không giữ được độc lập, tự chủ, chủ quyền, quyền quyết định chính sách đối nội, đối ngoại, thì hội nhập quốc tế không thể đem lại hiệu quả thiết thực, quyền lực đích thực cho quốc gia - dân tộc Việt Nam trong các cơ quan quyền lực khu vực, quốc tế và như thế, Việt Nam có thể bị phụ thuộc vào nước ngoài. Vì vậy, trong những năm đổi mới đất nước, Việt Nam đã chủ động, tích cực hội nhập quốc tế trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ. Nhờ đó, đã thực hiện tốt chủ trương xây dựng và từng bước hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm và phát huy tối ưu quyền làm chủ của các tầng lớp nhân dân. Khâu then chốt đóng vai trò quyết định trong việc giữ vững độc lập, tự chủ và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế trong lĩnh vực chính trị là không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, năng lực quản lý của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội của Việt Nam.

Thứ hai, giữ vững độc lập, tự chủ và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế trên lĩnh vực kinh tế, thể hiện ở việc xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, có cơ cấu kinh tế hợp lý, hiệu quả; đảm bảo sự an toàn cần thiết, đặc biệt là an ninh lương thực quốc gia, an toàn năng lượng, tài chính - tiền tệ; môi trường; nền kinh tế phát triển nhanh, bền vững, có năng lực cạnh tranh cao; cơ cấu xuất - nhập khẩu cơ bản cân đối; đầu tư của nước ngoài vào một số ngành kinh tế quan trọng chiếm tỷ lệ vừa phải, không thể chi phối nền kinh tế Việt Nam; tránh lệ thuộc vào một thị trường, một đối tác cụ thể. Việt Nam chủ trương xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ thể hiện trước hết là độc lập, tự chủ về đường lối phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; đổi mới mô hình tăng trưởng gắn với cơ cấu lại nền kinh tế; hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trên cơ sở thiết lập nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; làm cho nền kinh tế Việt Nam trở thành một bộ phận hữu cơ của nền kinh tế thị trường thế giới. Tập trung ổn định kinh tế vĩ mô, xử lý các yếu kém nội tại của nền kinh tế, như: nợ xấu, nợ công, rủi ro và lạm phát, cải cách doanh nghiệp nhà nước, lành mạnh hóa hệ thống ngân hàng thương mại, v.v.

Thứ ba, giữ vững độc lập, tự chủ và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh, thể hiện ở việc tranh thủ tối đa các cơ hội mà hội nhập quốc tế đem lại để giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để đổi mới và phát triển, góp phần bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới. Đảng ta cho rằng, để thực hiện tốt mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc là thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam; tập trung xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số đơn vị, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại, đủ sức đối phó với những thách thức mới nảy sinh trong bối cảnh quốc tế hiện nay. Đó là vấn đề an ninh mạng, khủng bố, bạo loạn, chống phá chế độ; các nguy cơ xảy ra như thiên tai, dịch bệnh, thảm họa công nghiệp; các thách thức an ninh phi truyền thống và phát triển.

Thứ tư, giữ vững độc lập, tự chủ và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế trên lĩnh vực xã hội, văn hóa và phát triển con người, thể hiện ở việc thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện; đầy tính nhân văn vì lợi ích của nhân dân, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; lấy con người làm trung tâm của sự phát triển, mọi người được tham gia và đều được hưởng thụ các giá trị vật chất và tinh thần. Luôn chú trọng giải quyết các vấn đề đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo; khoa học và công nghệ; quản lý phát triển xã hội; thực hiện có hiệu quả các chính sách dân tộc, tôn giáo, bảo vệ tài nguyên và môi trường, xây dựng nông thôn mới; thu hẹp khoảng cách giầu - nghèo. Chăm lo xây dựng các thiết chế xã hội tương thích để dự báo và ngăn ngừa các rủi ro, xung đột nảy sinh trong quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa, v.v.

3. Định hướng giải pháp giải quyết mối quan hệ giữa giữ vững độc lập, tự chủ và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế trong thời gian tới

Hiện nay, tình hình thế giới, khu vực có những thay đổi nhanh chóng, phức tạp, khó dự báo. Tình trạng xâm phạm chủ quyền quốc gia, tranh chấp lãnh thổ và tài nguyên, xung đột sắc tộc, tôn giáo, can thiệp lật đổ, khủng bố, chiến tranh cục bộ, chiến tranh mạng,... tiếp tục diễn ra gay gắt ở nhiều khu vực. Sự gia tăng sức mạnh quân sự, quốc phòng, đặc biệt là sự ra đời của nhiều loại vũ khí, trang bị mới, kể cả vũ khí hạt nhân với những chính sách cực đoan của một số nước trên thế giới, nguy cơ xung đột, chiến tranh có thể bùng phát vào bất kỳ thời điểm nào. Song, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn; toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế tiếp tục được đẩy mạnh. Cục diện thế giới theo xu hướng đa cực, đa trung tâm diễn ra nhanh hơn. Các nước lớn điều chỉnh chiến lược, vừa hợp tác, vừa cạnh tranh, đấu tranh, kiềm chế lẫn nhau, tác động mạnh đến cục diện thế giới và các khu vực. Những biểu hiện của chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa cường quyền áp đặt, chủ nghĩa thực dụng ngày càng nổi lên trong quan hệ quốc tế, dẫn đến nguy cơ phá vỡ luật lệ và tổ chức, thiết chế quốc tế, bền vững của thời kỳ toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Điều đó đặt ra nhiều thách thức đối với Việt Nam trong giữ vững độc lập, tự chủ và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế.

Để giữ vững độc lập, tự chủ và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế trong tình hình mới, Việt Nam phải tiến hành đồng bộ nhiều giải pháp, trong đó tập trung thực hiện tốt một số nội dung sau:

Một là, xây dựng thực lực mạnh, tăng cường khả năng đấu tranh chống sức ép, ảnh hưởng từ bên ngoài, giữ vững ổn định bên trong, bảo vệ độc lập, tự chủ, lợi ích quốc gia - dân tộc. Muốn giữ vững độc lập, tự chủ, nhất thiết phải có thực lực mạnh. Để có thực lực mạnh, phải kiên quyết, kiên trì đường lối đổi mới, nâng cao hiệu quả công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Thực lực của Việt Nam là sức mạnh tổng hợp mọi mặt: chính trị, kinh tế, văn hóa, quốc phòng, an ninh, đối ngoại; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, trong nước với quốc tế, tăng cường khả năng đấu tranh chống sức ép, ảnh hưởng tiêu cực từ bên ngoài. Vấn đề quyết định là “kinh tế phải vững, quốc phòng phải mạnh, thực lực phải cường, lòng dân phải yên, chính trị - xã hội ổn định, cả dân tộc là một khối đoàn kết thống nhất”2. Đồng thời, triển khai mạnh mẽ định hướng chiến lược chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; coi đây là sự nghiệp của toàn dân và cả hệ thống chính trị, trên cơ sở phát huy tối đa nội lực, gắn kết chặt chẽ và thúc đẩy quá trình nâng cao sức mạnh tổng hợp, năng lực cạnh tranh của đất nước.

Hai là, chủ động dự báo, giải quyết tốt mối quan hệ biện chứng giữa đối tác và đối tượng, xử lý linh hoạt mọi tình huống, không để Việt Nam rơi vào thế bị động, đối đầu. Trong điều kiện toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế phát triển mạnh mẽ và sâu rộng, Việt Nam vừa phải giải quyết tốt các mối quan hệ đối tác, vừa phải xử lý khôn khéo các mối quan hệ với “đối tượng”; tiếp tục mở rộng hợp tác, nhưng trên cơ sở giữ được độc lập, chủ quyền và bản sắc văn hóa dân tộc; chủ động, tích cực mở cửa, hợp tác với nước ngoài, nhưng kiên quyết giữ vững ổn định chính trị - xã hội và an ninh quốc gia; dự báo chính xác tình hình, sáng suốt nhìn nhận, xử lý thấu tình, đạt lý các mối quan hệ; tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ, giúp đỡ của bạn bè quốc tế để phát triển. Kiên quyết giữ vững độc lập dân tộc, lợi ích sống còn của quốc gia; khắc phục tác động tiêu cực, tranh thủ, tận dụng tối đa các điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng đất nước và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đây vừa là nguyên tắc, vừa yêu cầu trong xử lý các tình huống, quan hệ với đối tác và đối tượng của Việt Nam.

Ba là, củng cố quốc phòng, an ninh, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh đáp ứng yêu cầu giữ vững độc lập, tự chủ và chủ động, tích cực, hội nhập quốc tế. Trong tình hình mới, Việt Nam cần tiếp tục xây dựng “thế trận lòng dân”, tạo nền tảng vững chắc để xây dựng nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân; xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, ưu tiên hiện đại hóa một số quân chủng, binh chủng, lực lượng; lấy xây dựng về chính trị làm cơ sở, đảm bảo cho lực lượng vũ trang  tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và Nhân dân, tạo cơ sở vững chắc cho việc giữ vững độc lập, tự chủ và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế trong tình hình mới.

Thiếu tướng, PGS, TS. NGUYỄN BÁ DƯƠNG, Ủy viên Hội đồng Lý luận Trung ương, Nguyên Viện trưởng Viện Khoa học xã hội nhân văn quân sự
_________________

- Bộ Quốc phòng – Quốc phòng Việt Nam 2019, Nxb CTQGST, H. 2019, tr. 25.

2 - ĐCSVN – Văn kiện Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Văn phòng Trung ương Đảng, H. 2013, tr. 168-169.

Ý kiến bạn đọc (0)

Diễn văn của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng tại Lễ kỷ niệm 90 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
Sáng 03-2, tại Thủ đô Hà Nội, Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và thành phố Hà Nội tổ chức trọng thể Lễ kỷ niệm 90 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (03-2-1930 - 03-2-2020).