Tổng kết thực tiễn và kinh nghiệm Thực tiễn và kinh nghiệm

QPTD -Thứ Sáu, 19/02/2021, 09:59 (GMT+7)
Ngành Hậu cần Quân đoàn 4 đổi mới, nâng cao chất lượng bảo đảm

Để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của Quân đoàn chủ lực cơ động chiến lược trong tình hình mới, những năm qua, ngành Hậu cần Quân đoàn 4 đã triển khai toàn diện, đồng bộ các biện pháp về tư tưởng, tổ chức, chuyên môn, nghiệp vụ, nhằm đổi mới, nâng cao chất lượng công tác đảm bảo hậu cần và đạt được kết quả tích cực. Nổi bật là, Hậu cần các cấp, trước hết là Cục Hậu cần đã chủ động tham mưu cho Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân đoàn, cấp ủy, chỉ huy các đơn vị nhiều chủ trương, giải pháp lãnh đạo, chỉ đạo công tác hậu cần phù hợp, hiệu quả; chế độ công tác hậu cần ngày càng đi vào nền nếp chính quy; các mặt bảo đảm có nhiều đổi mới, chất lượng nâng cao,… đáp ứng kịp thời nhu cầu hậu cần cho nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, thường xuyên và đột xuất, góp phần đảm bảo cho Quân đoàn hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao.

Để có được thành tích đó, ngành Hậu cần Quân đoàn đã quán triệt sâu sắc các chỉ thị, nghị quyết của cấp trên về công tác hậu cần, trọng tâm là Nghị quyết số 623-NQ/QUTW, ngày 29/10/2012 của Quân ủy Trung ương “Về công tác hậu cần Quân đội đến năm 2020 và những năm tiếp theo”. Hằng năm, trên cơ sở Chỉ lệnh về “Công tác Hậu cần” của Tư lệnh Quân đoàn, Cục Hậu cần cụ thể hóa thành các nội dung, mục tiêu, chỉ tiêu, khâu đột phá, phù hợp với đặc điểm, nhiệm vụ của Quân đoàn; phát huy vai trò nòng cốt của hậu cần các cấp và huy động sức mạnh tổng hợp của các lực lượng trong tổ chức thực hiện.

Trước hết, Cục Hậu cần tập trung chỉ đạo, hướng dẫn, đôn đốc ngành hậu cần các cơ quan, đơn vị xây dựng, rà soát, bổ sung kế hoạch, phương án bảo đảm hậu cần sẵn sàng chiến đấu và các tình huống đột xuất, đảm bảo phù hợp với nhiệm vụ và tình hình thực tế. Đồng thời, duy trì nghiêm nền nếp, chế độ hậu cần sẵn sàng chiến đấu; tăng cường luyện tập, diễn tập bảo đảm hậu cần, nâng cao khả năng cơ động, bảo đảm của cơ quan, đơn vị hậu cần các cấp. Chỉ đạo các ngành bảo đảm đồng bộ trang bị, vật chất hậu cần sẵn sàng chiến đấu, huấn luyện dã ngoại, làm nhiệm vụ đột xuất, như: phòng, chống thiên tai, cứu hộ, cứu nạn, theo hướng gọn cho từng đơn vị. Chú trọng xây dựng, nâng cấp hệ thống kho tàng, ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, bảo quản hàng, hóa, không để hao hụt, mất mát; kiểm tra, theo dõi chặt chẽ việc tổ chức luân lưu đảo hạt trong các kho dự trữ, đúng theo quy định, phù hợp yêu cầu, nhiệm vụ. Đồng thời, hiệp đồng chặt chẽ với cơ quan quân sự các tỉnh, thành phố khu vực tác chiến, tổ chức khai thác vật chất tại chỗ, nâng cao khả năng, huy động năng lực hậu cần khu vực phòng thủ; kết hợp chặt chẽ giữa bảo đảm của trên với bảo đảm tại chỗ, trong đó chú trọng trên hướng chiến lược đảm nhiệm.

Cùng với chủ động chuẩn bị chu đáo, bảo đảm tốt hậu cần cho nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, đột xuất, ngành Hậu cần Quân đoàn chú trọng nâng cao chất lượng bảo đảm hậu cần thường xuyên, giữ ổn định, bảo đảm tốt đời sống, sức khỏe bộ đội. Trong điều kiện thời tiết, dịch bệnh diễn biến phức tạp, giá các mặt hàng lương thực, thực phẩm thường xuyên biến động theo chiều hướng tăng cao, nguồn cung không ổn định, nguy cơ cao về mất an toàn vệ sinh thực phẩm, Cục Hậu cần đã chủ động tham mưu với Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân đoàn tích cực đổi mới phương thức bảo đảm vật chất theo cơ chế quản lý tài chính mới; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền; xã hội hóa một số mặt bảo đảm hậu cần, mở rộng đấu thầu trong mua sắm, tạo nguồn theo quy định. Trong đó, tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị chủ động khai thác, tạo nguồn lương thực, thực phẩm ở thời điểm có lợi, phát huy mặt tích cực của cơ chế thị trường, thế mạnh địa bàn đóng quân. Hằng năm, Quân đoàn thu mua hàng nghìn tấn lúa tạm trữ, tổ chức xay xát đảm bảo 100% nhu cầu gạo cho các đơn vị với giá rẻ hơn giá qui định của Bộ và thị trường 08% - 10%. Đồng thời, đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả thực hành tiết kiệm, phòng, chống tham nhũng, lãng phí; phát huy ý thức “cần, kiệm”, tinh thần “tự lực, tự cường”, triển khai đồng bộ các biện pháp nâng cao chất lượng bảo đảm hậu cần.

Mô hình tăng gia sản xuất rau xanh của Lữ đoàn Công binh 550

Cùng với tạo nguồn từ bên ngoài, Quân đoàn đẩy mạnh tăng gia sản xuất, xác định đây là giải pháp cơ bản, chủ động nguồn thực phẩm sạch, ổn định để cải thiện, nâng cao chất lượng bữa ăn của bộ đội và tạo nguồn thu cho đơn vị. Cục đã tham mưu và tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo nghiên cứu, xây dựng kế hoạch tăng gia sản xuất dài hạn và hằng năm. Các cơ quan, đơn vị tích cực phát huy nội lực, triệt để tận dụng, cải tạo đất đai, ao hồ, quy hoạch tăng gia sản xuất gắn với quy hoạch doanh trại “chính quy, xanh, sạch, đẹp”; kết hợp tăng gia sản xuất với quản lý, bảo vệ đất quốc phòng; tổ chức tăng gia, chăn nuôi theo hướng tập trung, bền vững, khép kín, bảo vệ môi trường. Trước sự bùng phát của dịch tả lợn châu Phi, Cục đã chỉ đạo các đơn vị theo dõi chặt chẽ tình hình dịch bệnh, tiến hành khoanh vùng, tẩy trùng, phòng dịch; kiểm soát chặt chẽ thức ăn và các nguồn lây bệnh; hạn chế xuống đàn, phát triển đàn; tuyệt đối không nhập lợn ngoài thị trường; đồng thời, mở rộng chăn nuôi đàn gia cầm. Bằng các biện pháp quyết liệt, phù hợp, đàn lợn của Quân đoàn không bị nhiễm bệnh, tuy số đầu lợn giảm nhưng nhờ sự bù đắp của thịt gia cầm, chất lượng bữa ăn của bộ đội vẫn được duy trì. Bên cạnh các mô hình tăng gia sản xuất truyền thống, Quân đoàn đầu tư xây dựng, nhân rộng nhiều mô hình mới, hiệu quả kinh tế cao; chỉ đạo các đơn vị đa dạng hóa vật nuôi, cây trồng, xen canh, gối vụ, tổ chức nuôi, trồng theo hướng chuyên canh, áp dụng công nghệ cao, v.v. Nhờ đó, kết quả tăng gia sản xuất của Quân đoàn đều đạt và vượt chỉ tiêu1. Đến nay, Quân đoàn tự túc được 100% nhu cầu rau xanh; 75% nhu cầu thịt, cá,… góp phần quan trọng vào giữ vững và nâng cao một bước đời sống bộ đội, kể cả thời điểm giá các mặt hàng này tăng cao.

Công tác nuôi dưỡng, bảo đảm ăn uống của bộ đội được Quân đoàn đặc biệt quan tâm. Theo đó, cơ quan hậu cần các cấp đã xây dựng cơ cấu định lượng, thực đơn, nấu mẫu theo mức tiền ăn mới theo đúng quy định của Bộ Quốc phòng. Cơ quan hậu cần, hệ thống trực ban, tổ kinh tế các cấp tăng cường công tác quản lý, kiểm tra bảo đảm ăn uống, nhất là tiêu chuẩn tiền ăn của bộ đội; giám sát chặt chẽ chất lượng, giá lương thực, thực phẩm đưa vào bếp ăn và các khâu trong quy trình tổ chức bảo đảm ăn uống. Các đơn vị tích cực cải tiến, chế biến món ăn; kết hợp phát triển tăng gia sản xuất với nâng cao hiệu quả hoạt động của các trạm chế biến, giết mổ tập trung, thực hiện mục tiêu khép kín từ sản xuất đến sử dụng sản phẩm. Để cải thiện điều kiện làm việc của lực lượng hậu cần và nâng cao chất lượng phục vụ bộ đội, ngành đã tham mưu cho Quân đoàn đầu tư hàng tỷ đồng để hiện đại hóa trang bị nhà ăn, nhà bếp, theo hướng đồng bộ, chính quy, đáp ứng yêu cầu tổ chức ăn uống tại trại và dã ngoại. Nhờ đó, chất lượng bữa ăn của bộ đội được duy trì tốt, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm; định lượng và nhiệt lượng đều vượt chỉ tiêu quy định2. Hằng năm, 100% đơn vị của Quân đoàn đạt tiêu chuẩn “Nuôi quân giỏi, quản lý quân nhu tốt”.

Cùng với đó, Cục Hậu cần Quân đoàn chỉ đạo Ngành Quân y nâng cao chất lượng quản lý, bảo vệ, chăm sóc sức khỏe bộ đội. Hệ thống quân y, từ Bệnh viện Quân đoàn đến bệnh xá các đơn vị được kiện toàn, củng cố, đầu tư nâng cấp trang thiết bị, đáp ứng yêu cầu khám, chữa bệnh của từng tuyến. Quân y các cấp duy trì nghiêm các chế độ, nền nếp công tác chuyên môn; thường xuyên làm tốt công tác tuyên truyền vệ sinh, phòng, chống dịch bệnh, vệ sinh an toàn thực phẩm, hình thành cho bộ đội nếp sống vệ sinh khoa học; chú trọng phát triển y dược học cổ truyền; khai thác, sử dụng có hiệu quả các sản phẩm từ vườn thuốc nam phục vụ chăm sóc sức khỏe bộ đội. Công tác quản lý sức khỏe bộ đội được tiến hành chặt chẽ ngay từ cơ sở. Hiện nay, 100% cán bộ, chiến sĩ được lập sổ, phiếu theo dõi, định kỳ hằng năm tổ chức khám kiểm tra sức khỏe theo phân cấp. Vì vậy, nhiều năm qua, Quân đoàn không để xảy ra dịch bệnh; 100% đơn vị đạt tiêu chuẩn “Đơn vị quân y 5 tốt”; tỷ lệ quân số khỏe của Quân đoàn luôn đạt gần 99%. Cùng với đó, Quân đoàn tích cực tham gia Chương trình kết hợp quân, dân y, phối hợp với Sở Y tế Thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh Đồng Nai, Bình Dương triển khai nhiều hoạt động chăm sóc sức khỏe cho nhân dân trên địa bàn. Đặc biệt, vừa qua Quân đoàn đã làm tốt công tác phòng, chống dịch Covid-19; phối hợp với Bộ Tư lệnh Thành phố Hồ Chí Minh và các địa phương, tổ chức tiếp nhận, cách ly cho gần 500 công dân Việt Nam nhập cảnh qua cửa khẩu sân bay Tân Sơn Nhất, đảm bảo an toàn tuyệt đối.

Bảo đảm ở và sinh hoạt của bộ đội được Ngành quan tâm, chăm lo chu đáo. Đảng ủy, chỉ huy Cục chủ động làm tốt chức năng tham mưu cho Quân đoàn nâng cao chất lượng quy hoạch tổng thể mặt bằng doanh trại; quản lý, giám sát chặt chẽ chất lượng, tiến độ các dự án, công trình. Công tác xây dựng cơ bản được triển khai theo hướng tập trung, thống nhất, cơ bản, lâu dài; thực hiện đúng quy hoạch, quy chế, quy trình đầu tư và thứ tự ưu tiên. Trong đó, ưu tiên các công trình, như: nhà ở, nhà ăn, nhà bếp, công trình vệ sinh, nước sạch, v.v. Các đơn vị phát huy nội lực, đẩy mạnh phong trào thi đua “Xây dựng và quản lý doanh trại chính quy, sáng, xanh, sạch, đẹp”. Đến nay, Quân đoàn đã hoàn thành mục tiêu xóa nhà cấp 4; 100% các đơn vị được sử dụng điện lưới quốc gia và nguồn nước hợp vệ sinh. Doanh trại các cơ quan, đơn vị đều có khuôn viên, vườn hoa, cây cảnh, tạo cảnh quan, môi trường khang trang, sạch, đẹp, góp phần xây dựng Quân đoàn chính quy.

Thời gian tới, công tác bảo đảm hậu cần của Quân đoàn đặt ra yêu cầu rất cao. Nhưng với ý thức chính trị, quyết tâm cao, cán bộ, nhân viên, chiến sĩ ngành Hậu cần Quân đoàn 4 tiếp tục nỗ lực thực hiện tốt công tác bảo đảm hậu cần, thiết thực đưa Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ XI và Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng vào thực tiễn, góp phần nâng cao sức mạnh chiến đấu, xây dựng Quân đoàn vững mạnh toàn diện, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.

Đại tá NGUYỄN ĐỨC BÌNH Chủ nhiệm Hậu cần Quân đoàn
______________

1 - Rau, củ, quả đạt 148 kg/người/năm; thịt 53 kg/người/năm; cá đạt bình quân 43,3 kg/người/năm. Lãi từ tăng gia sản xuất và dịch vụ: 1.300.000 đ/người/năm; trong đó, từ tăng gia sản xuất : 680.000 đ/người/năm, thu từ chế biến và xay xát, dịch vụ là 620.000 đ/người/năm.

2 - Nhiệt lượng khẩu phần ăn của bộ binh bình quân đạt 3.300 Kcal/người/ngày, cao hơn 100 Kcal so với chỉ tiêu của Bộ.

 

Ý kiến bạn đọc (0)