Thứ Ba, 29/04/2025, 12:18 (GMT+7)
Vùng đặc quyền kinh tế là một chế định pháp lý mới, đặc thù, lần đầu tiên được ghi nhận trong Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (gọi tắt là Công ước năm 1982). Theo đó, vùng đặc quyền kinh tế là vùng biển nằm ở ngoài lãnh hải, tiếp liền với lãnh hải và đặt dưới chế độ pháp lý riêng. Điều 57 của Công ước quy định: “Vùng đặc quyền kinh tế không mở rộng ra quá 200 hải lý tính từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải”. Công ước năm 1982 cũng quy định các quyền thuộc chủ quyền, quyền tài phán quốc gia, các quyền và nghĩa vụ khác của các quốc gia ven biển trong vùng đặc quyền kinh tế1. Luật Biển Việt Nam (Điều 15) xác định: vùng đặc quyền kinh tế của nước ta “là vùng biển tiếp liền và nằm ngoài lãnh hải Việt Nam, hợp với lãnh hải thành một vùng biển có chiều rộng 200 hải lý tính từ đường cơ sở”. Như vậy, khái niệm vùng đặc quyền kinh tế của Luật Biển Việt Nam hoàn toàn thống nhất với Công ước năm 1982.
Về chế độ pháp lý, Điều 16 của Luật Biển Việt Nam quy định:
“1. Trong vùng đặc quyền kinh tế, Nhà nước thực hiện:
a) Quyền chủ quyền về việc thăm dò, khai thác, quản lý và bảo tồn tài nguyên thuộc vùng nước bên trên đáy biển, đáy biển và lòng đất dưới đáy biển; về các hoạt động khác nhằm thăm dò, khai thác vùng này vì mục đích kinh tế;
b) Quyền tài phán quốc gia về lắp đặt và sử dụng đảo nhân tạo, thiết bị và công trình trên biển; nghiên cứu khoa học biển, bảo vệ và gìn giữ môi trường biển;
c) Các quyền và nghĩa vụ khác phù hợp với pháp luật quốc tế.
2. Nhà nước tôn trọng quyền tự do hàng hải, hàng không; quyền đặt dây cáp, ống dẫn ngầm và hoạt động sử dụng biển hợp pháp của các quốc gia khác trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam theo quy định của Luật này và điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là thành viên, không làm phương hại đến quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia và lợi ích quốc gia trên biển của Việt Nam.
Việc lắp đặt dây cáp và ống dẫn ngầm phải có sự chấp thuận bằng văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam.
3. Tổ chức, cá nhân nước ngoài được tham gia thăm dò, sử dụng, khai thác tài nguyên, nghiên cứu khoa học, lắp đặt các thiết bị và công trình trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam trên cơ sở các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là thành viên, hợp đồng được ký kết theo quy định của pháp luật Việt Nam hoặc được phép của Chính phủ Việt Nam.
4. Các quyền có liên quan đến đáy biển và lòng đất dưới đáy biển được thực hiện theo quy định tại Điều 17 và Điều 18 của Luật này”.
Như vậy, vùng đặc quyền kinh tế theo Luật Biển Việt Nam đã cụ thể hóa đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của Việt Nam phù hợp với Công ước năm 1982; thống nhất với Tuyên bố ngày 12-5-1977 của Chính phủ nước Cộng hòa XHCN Việt Nam về lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam.
TẠ QUANG
_____________
1 - Xem Vùng tiếp giáp lãnh hải và Vùng đặc quyền kinh tế, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, Số 3-2010, tr. 96.
Vùng đặc quyền kinh tế,Luật biển
Nâng cao hiệu quả công tác phối hợp giữa Cảnh sát biển Việt Nam với các lực lượng trong phòng, chống IUU 24/04/2025
Hải đoàn 42 nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật 14/04/2025
Vùng 2 Hải quân xây dựng “thế trận lòng dân” trên biển vững chắc 20/03/2025
Vùng 5 Hải quân đẩy mạnh công tác đối ngoại quốc phòng 13/03/2025
Bộ đội Biên phòng tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đẩy mạnh công tác đấu tranh, phòng, chống tội phạm 27/02/2025
Cát Bà - Khu dự trữ sinh quyển đa dạng sinh học 13/02/2025
Vùng Cảnh sát biển 1 nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại trong tình hình mới 06/02/2025
Bộ đội Biên phòng tỉnh Thanh Hóa tích cực đấu tranh chống khai thác IUU 16/01/2025
Bốn trọng tâm trong xây dựng Vùng Cảnh sát biển 3 vững mạnh toàn diện “mẫu mực, tiêu biểu” 06/01/2025
Gặp mặt báo chí giới thiệu về Chương trình giao lưu “Cảnh sát biển Việt Nam và những người bạn” lần thứ hai, năm 2024 12/12/2024
Hải đoàn 42 nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật
Nâng cao hiệu quả công tác phối hợp giữa Cảnh sát biển Việt Nam với các lực lượng trong phòng, chống IUU