Đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống Quán triệt, thực hiện nghị quyết

QPTD -Thứ Hai, 28/10/2024, 10:41 (GMT+7)
Tư duy của Đảng về phát triển công nghiệp quốc phòng, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới (Tiếp theo và hết)

III. Giải pháp đẩy mạnh phát triển công nghiệp quốc phòng đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc thời kỳ mới1

Từ kết quả đạt được, thực trạng và những vấn đề đặt ra trong thời gian qua, để đẩy mạnh phát triển công nghiệp quốc phòng đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc thời kỳ mới, cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp; trong đó, tập trung vào một số giải pháp chủ yếu sau.

Thủ tướng Phạm Minh Chính tham quan Triển lãm Quốc phòng quốc tế 2022. Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Một là, tăng cường tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cấp ủy, chính quyền các cấp, các ngành, mọi cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với nhiệm vụ quan trọng này. Đây là giải pháp nền tảng, nhằm tạo sự thống nhất cao về nhận thức và hành động của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và cả hệ thống chính trị trong đẩy mạnh phát triển công nghiệp quốc phòng thời kỳ mới. Theo đó, nội dung tuyên truyền, giáo dục cần toàn diện, cùng với quán triệt sâu sắc các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc cần hướng trọng tâm vào các nghị quyết, đề án, quy hoạch, kế hoạch xây dựng, phát triển công nghiệp quốc phòng thời kỳ mới; đặc biệt là Nghị quyết số 08-NQ/TW, ngày 26/01/2022 của Bộ Chính trị (khóa XIII) về “Đẩy mạnh phát triển công nghiệp quốc phòng đến năm 2030 và những năm tiếp theo”, “Luật Công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp”, v.v. Qua đó, giúp cho các tổ chức, các lực lượng, nhất là cán bộ chủ trì các cấp, người đứng đầu các cơ sở công nghiệp quốc phòng nòng cốt nhận thức ngày càng đầy đủ, sâu sắc hơn vị trí, vai trò quan trọng của công nghiệp quốc phòng; sự cần thiết, cũng như quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp đẩy mạnh phát triển công nghiệp quốc phòng đến năm 2030 và những năm tiếp theo; trách nhiệm của các tổ chức, các lực lượng, v.v. Về hình thức, biện pháp, cần vận dụng linh hoạt, sáng tạo, sát với từng đối tượng; gắn tuyên truyền, giáo dục với đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch và mọi nhận thức lệch lạc, v.v. Trên cơ sở nhận thức đúng đắn, các cấp ủy, bộ, ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị, tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo; tích cực cụ thể hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng thành chương trình, mục tiêu, kế hoạch và quyết liệt triển khai thực hiện. Gắn chương trình, đề án phát triển công nghiệp quốc phòng với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, nhất là quy hoạch phát triển công nghiệp của từng địa phương, ngành và tiến trình hiện đại hóa Quân đội. Kịp thời điều chỉnh, bổ sung và triển khai hiệu quả kế hoạch nghiên cứu, sản xuất, sửa chữa vũ khí, trang bị và các mặt hàng lưỡng dụng,… đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Chiến sĩ Sư đoàn Phòng không 367 triển khai vũ khí sẵn sàng chiến đấu. Ảnh: TTXVN

Hai là, tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách; kiện toàn tổ chức, bộ máy công nghiệp quốc phòng tinh, gọn, hiệu quả. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế cùng những tác động mạnh mẽ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, chúng ta cần tiếp tục rà soát, chủ động xây dựng, hoàn thiện khung khổ pháp lý về công nghiệp quốc phòng theo hướng đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, cải cách hành chính, đảm bảo thiết thực, khả thi, tạo điều kiện thuận lợi để công nghiệp quốc phòng hội nhập, phát triển nhanh, vững chắc. Đẩy mạnh xây dựng và luật hóa các cơ chế, chính sách đặc thù cho phát triển công nghiệp quốc phòng, góp phần huy động, đa dạng hóa, khơi thông các nguồn lực, hướng đến xây dựng nền công nghiệp quốc phòng hiện đại, lưỡng dụng. Trong đó, chú trọng các cơ chế, chính sách đặc thù về nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ; triển khai các dự án đầu tư phát triển sản phẩm trọng điểm; huy động nguồn lực tài chính và các thành phần kinh tế, doanh nghiệp lớn tham gia đầu tư phát triển công nghiệp quốc phòng; thu hút, đào tạo, gìn giữ nguồn nhân lực chất lượng cao; khuyến khích, phát huy, trọng dụng nhân tài; quản lý, nâng cao hiệu quả dẫn dắt hoạt động của các doanh nghiệp quốc phòng nòng cốt. Cùng với đó, tiếp tục kiện toàn tổ chức, bộ máy công nghiệp quốc phòng theo hướng tinh, gọn, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu xây dựng Quân đội tinh, gọn, mạnh, tiến lên hiện đại. Tập trung tổ chức lại các cơ sở công nghiệp quốc phòng nòng cốt theo hướng giảm số lượng doanh nghiệp yếu kém, tăng quy mô, chất lượng của một số cơ sở trọng điểm; tiến tới hình thành tổ hợp công nghiệp quốc phòng tiên tiến, hiện đại, vừa nghiên cứu, sản xuất, vừa sửa chữa vũ khí, trang bị kỹ thuật theo nhóm sản phẩm, phù hợp với quyết tâm bảo vệ Tổ quốc và thế bố trí chiến lược trên cả ba miền: Bắc - Trung - Nam. Tiếp tục chuyển một số cơ sở nghiên cứu, thiết kế sang mô hình doanh nghiệp khoa học - công nghệ; thành lập trung tâm đổi mới sáng tạo về công nghiệp quốc phòng. Nghiên cứu, từng bước đưa các doanh nghiệp Quân đội có thế mạnh về kỹ thuật, tài chính để tập trung đầu tư hiện đại hóa, bảo đảm đủ năng lực nghiên cứu, thiết kế, chế tạo, sản xuất vũ khí, trang bị hiện đại, các sản phẩm lưỡng dụng có giá trị kinh tế cao, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ thời kỳ mới.

Ba là, tăng cường đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, thu hút và trọng dụng nhân tài. Để có nền công nghiệp quốc phòng hiện đại cần có sự hội tụ từ nhiều yếu tố; trong đó, nhất thiết phải có nguồn nhân lực chất lượng cao. Đây là một tất yếu khách quan, vấn đề then chốt quyết định sự phát triển của công nghiệp quốc phòng cả trước mắt và lâu dài. Vì thế, Bộ Quốc phòng, trực tiếp là ngành Công nghiệp quốc phòng cần tập trung ưu tiên đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, nhất là đội ngũ cán bộ khoa học - công nghệ quân sự trên các lĩnh vực trọng điểm, mũi nhọn, như: cơ khí chế tạo, hóa chất, vật liệu mới, luyện kim đặc biệt…; các chuyên gia đầu ngành, kỹ sư trưởng và tổng công trình sư trong lĩnh vực nghiên cứu, thiết kế, chế tạo vũ khí chiến lược, có khả năng tích hợp cao…; cán bộ quản trị doanh nghiệp; đội ngũ công nhân lành nghề, v.v. Để nâng cao hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng, cần phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường, cơ sở nghiên cứu, doanh nghiệp và cơ quan quản lý trong thực hiện nội dung, chương trình đào tạo, bồi dưỡng. Gắn đào tạo với sử dụng; đào tạo với nghiên cứu, sản xuất. Nâng cao hiệu quả đào tạo thông qua các dự án, đề án nghiên cứu; nhất là các dự án chuyển giao công nghệ đồng bộ. Ưu tiên và mở rộng đối tác nước ngoài trong đào tạo kỹ sư thiết kế chế tạo vũ khí, khí tài đặc chủng; các kỹ thuật viên lành nghề; kỹ sư thực hành trực tiếp điều khiển, khai thác các thiết bị công nghệ hiện đại. Có cơ chế, chính sách đặc thù để thu hút nhân tài, tiềm năng chất xám từ các tổ chức kinh tế - xã hội, cơ sở nghiên cứu, thiết kế, hãng công nghệ lớn trong và ngoài nước tham gia các chương trình, dự án công nghệ cao (trí tuệ nhân tạo, công nghệ viễn thông, công nghệ thông tin, công nghệ lõi,...) và một số lĩnh vực cần thiết (nhiên liệu và động cơ tên lửa, máy bay chiến đấu, tàu ngầm, máy bay không người lái, xuồng không người lái, rađa cảnh giới,…). Thúc đẩy hình thành các nhóm nghiên cứu chuyên sâu, ngang tầm khu vực và thế giới về khoa học, công nghệ quân sự, thiết kế, chế tạo vũ khí, trang bị hiện đại. Tiếp tục rà soát, bổ sung, hoàn thiện các chế độ, chính sách, chăm lo ngày càng tốt hơn đời sống vật chất, tinh thần cho cán bộ, công nhân, người lao động, nhất là các chuyên gia đầu ngành, nhà khoa học, kỹ sư tài năng trong các cơ sở công nghiệp quốc phòng, để họ yên tâm, gắn bó với nghề, cống hiến nhiều nhất cho đất nước.

Bốn là, đẩy mạnh phát triển khoa học, công nghệ, thực hiện khâu đột phá nghiên cứu phát triển, sản xuất, sửa chữa vũ khí, trang bị kỹ thuật hiện đại. Chú trọng đẩy mạnh triển khai các dự án đầu tư chiều sâu công nghệ cho các cơ sở công nghiệp quốc phòng nòng cốt; kết hợp với đầu tư nâng cao năng lực nghiên cứu, thiết kế của các cơ sở nghiên cứu và một số cơ sở sản xuất, nhất là trong thiết kế, sản xuất, sửa chữa, cải tiến, hiện đại hóa các loại vũ khí, trang bị kỹ thuật có tính năng kỹ, chiến thuật cao. Tập trung đầu tư nguồn lực nghiên cứu làm chủ công nghệ lõi trong thiết kế, chế tạo, tích hợp sản xuất vũ khí chiến lược, các tổ hợp vũ khí tự động, vũ khí chính xác thế hệ mới. Đồng thời, tích cực nghiên cứu làm chủ công nghệ lõi sản xuất các loại vũ khí, khí tài thông minh theo mô hình hệ thống tự động hóa chỉ huy và làm chủ công nghệ vi mạch bán dẫn, công nghệ thiết kế bo mạch trong lĩnh vực điện tử - viễn thông, v.v. Mặt khác, cần đẩy mạnh hợp tác, huy động các cơ sở khoa học, công nghệ, cơ sở công nghiệp dân sinh tham gia nghiên cứu, phục vụ xây dựng, phát triển công nghiệp quốc phòng, công nghiệp lưỡng dụng. Để thực hiện khâu đột phá nghiên cứu phát triển, sản xuất vũ khí, trang bị kỹ thuật thế hệ mới, ngành Công nghiệp quốc phòng cần đẩy mạnh đổi mới sáng tạo, nâng cao năng lực nghiên cứu, thiết kế, chế tạo các sản phẩm vũ khí, trang bị, nhất là vũ khí chiến lược, vũ khí lục quân thế hệ mới. Trước mắt, tập trung đầu tư sản xuất thành công các chủng loại vũ khí, trang bị, khí tài hiện đại và chiến lược trên 05 nhóm sản phẩm chính: vũ khí trang bị cho lục quân; tàu quân sự và vũ khí dưới nước; tên lửa và hàng không vũ trụ quân sự; khí tài quân sự; vật tư kỹ thuật. Tăng tỷ lệ nội địa hóa các sản phẩm công nghiệp quốc phòng; phát triển những lĩnh vực mũi nhọn (cơ khí chế tạo, luyện kim đặc biệt, vật liệu mới, điện tử viễn thông,…) trên cơ sở công nghệ mới, hiện đại, tạo sức cạnh tranh quốc tế cao, tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu.

Triển lãm Quốc phòng quốc tế Việt Nam 2022 đã thu hút sự tham gia của hơn 170 doanh nghiệp công nghiệp quốc phòng đến từ 31 quốc gia và vùng lãnh thổ. Nguồn: baochinhphu.vn

Năm là, tăng cường hợp tác quốc tế về công nghiệp quốc phòng. Đây là giải pháp quan trọng nhằm “đi tắt, đón đầu”, tiếp thu kinh nghiệm quản lý, tiếp nhận chuyển giao công nghệ, phát triển nguồn nhân lực, huy động vốn để phát triển nền công nghiệp quốc phòng hiện đại, lưỡng dụng, v.v. Theo đó, ngành Công nghiệp Quốc phòng nói chung, các cơ sở công nghiệp quốc phòng nói riêng cần đẩy mạnh và đa dạng hóa nội dung, hình thức hợp tác. Chú trọng cả hợp tác nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ; sản xuất, sửa chữa vũ khí, trang bị; đào tạo nhân lực; mua, bán vũ khí và nguyên, vật liệu phục vụ cho ngành; trao đổi kinh nghiệm tổ chức quản lý, v.v. Coi trọng cả hợp tác song phương và đa phương; tăng cường quan hệ với các đối tác truyền thống như Nga, Ấn Độ, Nhật Bản…; mở rộng hợp tác với các đối tác chiến lược, có tiềm năng, thế mạnh về khoa học, công nghệ để phát triển các loại vũ khí chiến lược; thành lập các liên doanh với nước ngoài trong nghiên cứu, chế tạo các chi tiết, bán thành phẩm, các ngành phụ trợ,… phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Tăng cường trao đổi các đoàn công tác, tham gia, chủ trì các hội thảo, hội chợ, triển lãm quốc tế,… qua đó, đẩy mạnh xúc tiến thương mại, quảng bá sản phẩm, lựa chọn công nghệ, v.v. Mỗi doanh nghiệp quốc phòng cần chủ động vươn lên, làm chủ công nghệ tiên tiến và phương pháp quản lý hiện đại; chú trọng xây dựng thương hiệu, nâng cao năng lực cạnh tranh, đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu những mặt hàng có thế mạnh, tham gia sâu, rộng vào chuỗi giá trị cung ứng toàn cầu, góp phần đưa công nghiệp quốc phòng phát triển nhanh, bền vững, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới.

CAO THÀNH - PHẠM CƯỜNG - MINH ĐỨC
______________________
         

1 - Xem Tạp chí Quốc phòng toàn dân từ số 8/2024.

Ý kiến bạn đọc (0)

Đoàn kiểm tra của Ban Bí thư Trung ương Đảng làm việc với Ban cán sự Đảng bộ Tài chính
Sáng 27-9, Thượng tướng Ngô Xuân Lịch, Bí thư Trung ương Đảng, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, Trưởng đoàn kiểm tra của Ban Bí thư Trung ương Đảng làm việc với Ban cán sự Đảng Bộ Tài chính về kết quả thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI),...