Đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống Quán triệt, thực hiện nghị quyết

QPTD -Thứ Năm, 12/07/2018, 09:19 (GMT+7)
Quan điểm cơ bản về bảo vệ Tổ quốc trong Chiến lược Quốc phòng Việt Nam

Thực hiện phương hướng, đường lối quân sự, quốc phòng của Đảng và trên cơ sở phân tích, đánh giá tình hình các mặt cùng sự tham mưu, đề xuất của Bộ Quốc phòng, đầu năm 2018, Bộ Chính trị đã phê chuẩn Chiến lược Quốc phòng Việt Nam. Về bản chất, đây là chiến lược phòng thủ quốc gia, bảo vệ đất nước, giữ nước từ sớm, từ xa, từ khi nước chưa nguy, sẵn sàng chống chiến tranh xâm lược, mang tính hòa bình, tự vệ, bằng sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh của thời đại, dựa trên nền tảng đường lối chính trị đúng đắn của Đảng; trong đó, sức mạnh quốc phòng là then chốt, sức mạnh quân sự là đặc trưng. Chiến lược Quốc phòng thể hiện sự phát triển tư duy mới của Đảng về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ hội nhập và phát triển; đồng thời, là bước cụ thể hóa Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Lần đầu tiên chúng ta có một Chiến lược Quốc phòng hoàn chỉnh, với đầy đủ mục tiêu, quan điểm, nguyên tắc, phương châm và các nhiệm vụ, giải pháp đồng bộ. Trong đó, hệ thống quan điểm chỉ đạo về bảo vệ Tổ quốc của Chiến lược là nội dung hết sức quan trọng; là cơ sở, nền tảng để chỉ đạo các cấp, ngành, lực lượng và địa phương triển khai thực hiện.

Chiến lược Quốc phòng Việt Nam khẳng định: sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, nền tảng chính trị - tinh thần, “thế trận lòng dân”, là nhân tố trực tiếp, quyết định đến thắng lợi của sự nghiệp quốc phòng. Tiếp tục cụ thể hóa quan điểm về mối quan hệ giữa bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, lợi ích quốc gia - dân tộc với bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Kiên trì đường lối quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân gắn với xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh; kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh bằng biện pháp hòa bình với kiên quyết đánh bại mọi hành động xâm lược, bạo loạn, lật đổ của các thế lực thù địch. Tích cực, chủ động giải quyết tốt mối quan hệ giữa độc lập tự chủ với hội nhập quốc tế, vừa hợp tác, vừa đấu tranh; đồng thời, khẳng định vai trò nòng cốt của Quân đội nhân dân và Công an nhân dân trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.

Có thể thấy, những quan điểm trên là một thể thống nhất, vừa đảm bảo tính kế thừa truyền thống giữ nước của dân tộc, những bài học kinh nghiệm quý trong tiến trình cách mạng Việt Nam, tinh hoa quốc phòng, quân sự thế giới; đồng thời, có sự phát triển phù hợp với xu thế của thời đại và thực tiễn bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ hội nhập và phát triển. Nét mới trong quan điểm của Đảng về quốc phòng được thể hiện ở chỗ, đề cập sâu hơn, toàn diện hơn và có sự bổ sung, phát triển tương đối hoàn chỉnh so với giai đoạn trước. Nếu như trước đây, quan điểm về quốc phòng được thể hiện trong các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, của Quân ủy Trung ương mới chỉ là những định hướng chung nhất, thì tại văn bản Chiến lược này, Đảng ta đã chỉ rõ mục tiêu, nội hàm và yêu cầu cần đạt được trong từng quan điểm; trong đó, xác định cụ thể nhiệm vụ của quốc phòng trong từng tình huống chiến lược. Điều đó cho thấy, tư duy, tầm nhìn chiến lược sắc sảo và sự vận dụng sáng tạo của Đảng ta trong lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc thời kỳ mới.

Thật ra, các quan điểm chỉ đạo trên không phải bây giờ mới có, mà đã được thể hiện trong văn kiện các kỳ đại hội Đảng, các nghị quyết, chỉ thị của Trung ương, Quân ủy Trung ương, nhất là trong Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Và, trên thực tế đã được triển khai thực hiện qua từng giai đoạn cách mạng. Nhìn lại lịch sử cách mạng nước ta, nhất là trong hơn 30 năm đổi mới đất nước vừa qua cho thấy, việc thực hiện các quan điểm của Đảng trên lĩnh vực quốc phòng đã đạt nhiều kết quả quan trọng. Công tác tuyên truyền, giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng và an ninh cho cán bộ, đảng viên và toàn dân được thực hiện có chiều sâu, đi vào nền nếp, tạo sự thống nhất về nhận thức và hành động đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, nhất là “thế trận lòng dân” được xây dựng ngày càng vững chắc. Khu vực phòng thủ các cấp được quan tâm đầu tư xây dựng cơ bản, từng bước vững mạnh; công tác đối ngoại quốc phòng được triển khai mạnh mẽ, đạt hiệu quả thiết thực. Chất lượng tổng hợp, trình độ, khả năng sẵn sàng chiến đấu của lực lượng vũ trang không ngừng được nâng lên,… góp phần bảo vệ vững chắc chủ quyền, lãnh thổ của Tổ quốc, giữ vững ổn định chính trị, tạo môi trường thuận lợi để đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Bên cạnh kết quả đạt được, việc quán triệt, thực hiện quan điểm quốc phòng của Đảng cũng còn nhiều hạn chế, nhất là những tồn tại về nhận thức, về xây dựng nền quốc phòng toàn dân cũng như những bất cập về chính sách, pháp luật,… đã ảnh hưởng đến sức mạnh quốc phòng, khả năng phòng thủ đất nước. Trong khi đó, các nguy cơ Đảng ta chỉ ra vẫn tồn tại; vấn đề đối tượng, đối tác, không gian chiến lược, hình thái chiến tranh,… đã, đang có những phát triển mới, đe dọa đến sự ổn định của quốc phòng, an ninh. Vì thế, việc quán triệt nghiêm túc quan điểm về bảo vệ Tổ quốc trong Chiến lược Quốc phòng là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta và phải được thực hiện bằng nhiều giải pháp đồng bộ, thiết thực.

Một là, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, hiệu lực quản lý, điều hành của Nhà nước đối với sự nghiệp quốc phòng. Trong đó, phải chú trọng việc cụ thể hóa từng vấn đề thành các chủ trương, chính sách, pháp luật trên lĩnh vực quốc phòng; đồng thời, xác định các cơ chế lãnh đạo, chỉ đạo ở từng cấp cho phù hợp. Các cơ quan chức năng của Bộ Quốc phòng cần chủ động phối hợp với các cơ quan thuộc các ban, bộ, ngành có liên quan nghiên cứu, cụ thể hóa chức năng, mối quan hệ, tăng cường vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng trên phạm vi cả nước. Đồng thời, nghiên cứu, bổ sung chức năng, nhiệm vụ và mối quan hệ của Đảng ủy Quân khu với các tỉnh ủy, thành ủy; giữa Bộ Tư lệnh Quân khu với các địa phương trên địa bàn trong lĩnh vực quốc phòng. Trong tình hình hiện nay, để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước trong lĩnh vực quốc phòng, cần coi trọng xây dựng tổ chức đảng các cấp trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức; tăng cường sự đoàn kết, thống nhất; thực hiện nghiêm cơ chế kiểm tra, giám sát và kiểm soát quyền lực; từng bước hoàn thiện phương thức, cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với quốc phòng; chú trọng kiện toàn cơ quan, cán bộ làm công tác quốc phòng ở các bộ, ngành thuộc Chính phủ, v.v.

Hai là, triển khai đồng bộ, thống nhất việc xây dựng, phát triển đất nước gắn với tăng cường tiềm lực và sức mạnh quốc phòng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong mọi tình huống. Đây là nội dung quan trọng, làm cơ sở, nền tảng để giữ vững độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, dựa vào nội lực là chính trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Để làm được điều đó, các cấp, ngành, lực lượng, địa phương và toàn dân cần tập trung đầu tư, phát triển và nâng cao tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế; kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với bảo đảm quốc phòng trên từng khu vực, địa bàn và cả nước. Tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu, điều chỉnh quy hoạch các vùng, miền có tầm quan trọng chiến lược đối với quốc phòng theo hướng: gắn quy hoạch vùng kinh tế trọng điểm với quốc phòng, chú trọng các khu vực trọng điểm có ý nghĩa chiến lược phòng thủ quốc gia. Bên cạnh đó, các bộ, ngành, địa phương cần nghiên cứu, bổ sung, điều chỉnh kế hoạch động viên kinh tế thời kỳ đầu chiến tranh gắn với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội trên cả nước. Đồng thời, tổ chức triển khai thực hiện quy hoạch tổng thể bố trí quốc phòng kết hợp với kinh tế - xã hội; chú trọng quy hoạch đất quốc phòng chuyên dụng cho huấn luyện, diễn tập, thử nghiệm vũ khí, v.v. Hiện nay, cùng với phát triển kinh tế, Nhà nước cần đổi mới chính sách, cơ chế tài chính, huy động nguồn lực xã hội cho phát triển giáo dục, đào tạo, xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc.

Ba là, tập trung xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh cả về tiềm lực, lực lượng và thế trận, đáp ứng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Trong đó, xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại là nội dung cốt lõi, biện pháp quan trọng nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu của Chiến lược Quốc phòng đề ra. Trước hết, tập trung xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, trung thành tuyệt đối với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân, nhận thức sâu sắc nhiệm vụ, quyết tâm bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Tổ chức huấn luyện, diễn tập nâng cao khả năng sẵn sàng chiến đấu, bảo đảm sát đối tượng, phương án, địa bàn trong điều kiện địch sử dụng vũ khí công nghệ cao và môi trường tác chiến không gian mạng khốc liệt. Chú trọng nâng cao trình độ kỹ thuật, chiến thuật cho các lực lượng, nhất là khả năng làm chủ vũ khí, trang bị, phương tiện chiến đấu mới của các đơn vị tiến thẳng lên hiện đại; kết hợp chặt chẽ giữa đầu tư, mua sắm vũ khí, trang bị mới với cải tiến, nâng cao hiệu quả sử dụng các loại vũ khí, trang bị hiện có. Tiếp tục nghiên cứu, phát triển nghệ thuật quân sự cả cấp chiến lược, chiến dịch và chiến thuật; chuẩn bị từng bước hiện đại hóa các lực lượng còn lại; đẩy mạnh cải cách, tinh giản bộ máy, xây dựng Quân đội theo hướng: tinh, gọn, mạnh, cơ động, linh hoạt, xử lý kịp thời, hiệu quả các tình huống quốc phòng cả trong thời bình và khi có chiến tranh.

Bốn là, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế và đối ngoại về quốc phòng, góp phần nâng cao vị thế, uy tín của đất nước, Quân đội; ngăn chặn, đẩy lùi nguy cơ xung đột vũ trang, chiến tranh, giữ vững môi trường hòa bình để xây dựng, phát triển đất nước. Đây là nội dung rất quan trọng, cần được chú ý thực hiện trong điều kiện mới. Hiện nay, việc hội nhập quốc tế về quốc phòng tuy đã được mở rộng và có bước phát triển mới, nhưng cũng có mặt bất cập, thậm chí chưa đi vào chiều sâu, hiệu quả. Vì thế, thời gian tới, cần đẩy mạnh hợp tác cả trên bình diện song phương và đa phương, toàn diện trên các lĩnh vực, tập trung vào những lĩnh vực thiết thực, trực tiếp đáp ứng nhu cầu hiện đại hóa Quân đội, tăng cường quốc phòng, như: công nghiệp quốc phòng, đào tạo cán bộ, v.v. Qua đó, đưa quan hệ, hợp tác quốc phòng đi vào chiều sâu, gia tăng mức độ đan xen lợi ích chiến lược với tất cả các nước, nhất là với các đối tác chiến lược, các nước láng giềng, các nước khu vực ASEAN; tránh xung đột, đối đầu, bị cô lập, phụ thuộc. Tham gia tích cực, có trách nhiệm vào hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc trong một số lĩnh vực thế mạnh của ta để vừa học hỏi kinh nghiệm, nâng cao khả năng thích ứng với điều kiện hội nhập, vừa tranh thủ sự ủng hộ của bạn bè quốc tế, góp phần xây dựng môi trường hòa bình, ổn định ở khu vực, thế giới và nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.

Như vậy, quan điểm về bảo vệ Tổ quốc trong Chiến lược Quốc phòng là những định hướng cơ bản trong chỉ đạo, triển khai thực hiện những nội dung cốt lõi của Chiến lược. Nghiên cứu, quán triệt các quan điểm này là cơ sở để thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Trung tướng, PGS, TS. NGUYỄN ĐỨC HẢI, Viện trưởng Viện Chiến lược Quốc phòng

Ý kiến bạn đọc (0)

Đoàn kiểm tra của Ban Bí thư Trung ương Đảng làm việc với Ban cán sự Đảng bộ Tài chính
Sáng 27-9, Thượng tướng Ngô Xuân Lịch, Bí thư Trung ương Đảng, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, Trưởng đoàn kiểm tra của Ban Bí thư Trung ương Đảng làm việc với Ban cán sự Đảng Bộ Tài chính về kết quả thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI),...