Đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống Quán triệt, thực hiện nghị quyết

QPTD -Thứ Hai, 06/08/2018, 08:33 (GMT+7)
Bước phát triển về tư duy bảo vệ Tổ quốc trong Chiến lược Quốc phòng Việt Nam thời kỳ mới

Thời gian qua, từ yêu cầu bảo vệ Tổ quốc, Đảng và Nhà nước ta tập trung lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng và ban hành Chiến lược Quốc phòng Việt Nam thời kỳ mới. Đây là văn kiện quan trọng về quốc phòng, thể hiện bước phát triển về tư duy của Đảng đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, cần được quán triệt và triển khai thực hiện nghiêm túc, chặt chẽ.

Quán triệt, thực hiện nghiêm túc quan điểm, đường lối bảo vệ Tổ quốc của Đảng và trên cơ sở phân tích, đánh giá đúng tình hình trong nước, khu vực và quốc tế, vừa qua, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng đã tổ chức nghiên cứu, xây dựng và trình Bộ Chính trị thông qua, ban hành Chiến lược Quốc phòng Việt Nam thời kỳ mới. Đây không chỉ thể hiện trí tuệ, tầm nhìn chiến lược sắc sảo của Đảng ta trong lĩnh vực quốc phòng, mà còn là một trong những đột phá trong tư duy và tổ chức thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế diễn ra sâu rộng. Lần đầu tiên, trong hệ thống văn bản pháp quy về quốc phòng, chúng ta có một văn bản Chiến lược Quốc phòng hoàn chỉnh, tạo cơ sở pháp lý vững chắc trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành và triển khai thực hiện thắng lợi nhiệm vụ quân sự, quốc phòng trong điều kiện mới. Đặc biệt hiện nay, bối cảnh tình hình khu vực, quốc tế diễn biến phức tạp, khó lường; nhiều quốc gia trên thế giới, nhất là các nước lớn đã, đang triển khai xây dựng, điều chỉnh chiến lược an ninh quốc gia của riêng mình; trong khi đó, các tình huống quốc phòng cùng những thách thức an ninh truyền thống và phi truyền thống đối với nước ta ngày một gia tăng, nhất là âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của các thế lực thù địch thì việc ra đời của Chiến lược Quốc phòng Việt Nam càng có ý nghĩa quan trọng, với những phát triển mới, cần được nghiên cứu, quán triệt thấu đáo, làm cơ sở để triển khai thực hiện.

Trước hết, cần nhận thức rõ hơn, đầy đủ hơn về vị trí, vai trò của Chiến lược Quốc phòng và mối quan hệ của nó với Chiến lược bảo vệ Tổ quốc. Như đã biết, từ nhiều năm nay, trong giới nghiên cứu về quốc phòng vẫn tồn tại câu hỏi: chúng ta đã có Chiến lược Quốc phòng chưa, nếu có thì ban hành vào thời gian nào? Đây là câu hỏi nhiều người đặt ra và câu trả lời cũng chưa thống nhất. Thậm chí, có ý kiến còn cho rằng, từ trước đến nay chúng ta chưa có và chưa hề công bố bất cứ một chiến lược quốc phòng nào. Ý kiến đó không sai, nhưng chưa trúng và chưa thật đầy đủ, cặn kẽ đối với Chiến lược này nói riêng, lĩnh vực quốc phòng nói chung. Thật ra, đã từ lâu, tuy chưa thành văn bản chính thức, nhưng nội hàm của Chiến lược Quốc phòng đã được thể hiện một cách tập trung trong các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, của Quân ủy Trung ương,… về nhiệm vụ quân sự, quốc phòng và được cụ thể hóa thành các phương hướng, kế hoạch chiến lược của quốc gia. Chính nhờ đó, Đảng, Nhà nước ta đã lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, điều hành đất nước giành những thắng lợi to lớn trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, phù hợp với yêu cầu của từng giai đoạn cách mạng, kể cả trong cách mạng giải phóng dân tộc và sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Vì thế, việc quán triệt, thực hiện Chiến lược Quốc phòng Việt Nam thời kỳ mới phải toàn diện trên tất cả các mặt và đảm bảo tính lịch sử, khách quan và khoa học. Đặc biệt, phải nhận thức đầy đủ vị trí, vai trò, tầm quan trọng cùng những nội dung cơ bản của Chiến lược; thấu suốt quan điểm quốc phòng là công cuộc giữ nước bằng sức mạnh của toàn dân tộc, có sự kế thừa, phát triển truyền thống dân tộc, những bài học kinh nghiệm quý của các cuộc kháng chiến vừa qua và tinh hoa quốc phòng, quân sự thế giới.

Để hiểu hơn về Chiến lược này, trước hết, cần nắm vững Chiến lược Quốc phòng Việt Nam là chiến lược phòng thủ quốc gia bằng sức mạnh tổng hợp, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, từ khi nước chưa nguy; dựa trên nền tảng đường lối chính trị đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định, sức mạnh quốc phòng là then chốt, sức mạnh quân sự là đặc trưng, lực lượng vũ trang là nòng cốt. Trên cơ sở đó, thấy rõ sự cần thiết phải tăng cường quốc phòng một cách thường xuyên, chu đáo, đồng bộ từ thời bình, nhằm thực hiện mục tiêu giữ vững hòa bình, ổn định, tạo môi trường thuận lợi cho đất nước phát triển nhanh, bền vững. Trong đó, mục tiêu quan trọng hàng đầu là ngăn chặn, đẩy lùi và làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá bằng chiến lược “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch; sẵn sàng đánh thắng mọi hình thái chiến tranh xâm lược (nếu xảy ra), bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; tham gia bảo vệ hòa bình trong khu vực và trên thế giới. Cùng với đó, cần nhận thức sâu sắc về đặc điểm, tính chất của quốc phòng Việt Nam mang tính toàn dân, toàn diện, dựa vào sức mạnh tổng hợp của các lực lượng, lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại, v.v. Vì thế, cùng với nhận thức đúng về vai trò, vị trí Chiến lược Quốc phòng trong hệ thống các chiến lược quốc gia, cần đặt nó trong mối quan hệ hữu cơ đối với các chiến lược chuyên ngành khác và xác định đó là nội dung cơ bản, cốt lõi của chiến lược bảo vệ Tổ quốc, trên cơ sở quán triệt đường lối quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân của Đảng.

Hai là, nắm vững nội hàm cơ bản của Chiến lược Quốc phòng, cụ thể hóa thành mục tiêu, nhiệm vụ quân sự, quốc phòng trong tình hình mới. Đây là nội dung rất quan trọng, có ý nghĩa quyết định hiệu quả việc đưa đường lối bảo vệ Tổ quốc của Đảng vào cuộc sống. Trên cơ sở đường lối bảo vệ Tổ quốc đã được thể hiện trong các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, trọng tâm là Nghị quyết Đại hội XII, Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) cùng những đánh giá về bối cảnh chiến lược trong nước, khu vực và quốc tế, Chiến lược Quốc phòng Việt Nam đã đưa ra các dự báo, tình huống chiến lược và các thách thức quốc phòng của đất nước trong tình hình hiện nay. Đồng thời, cụ thể hóa những nội dung cốt lõi của chiến lược bảo vệ Tổ quốc vào lĩnh vực quốc phòng, phù hợp với đặc điểm, tính chất và yêu cầu, nhiệm vụ của quốc phòng Việt Nam thời kỳ mới.

Về quan điểm, Chiến lược tiếp tục khẳng định và cụ thể hóa luận điểm giữ vững sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với sự nghiệp quốc phòng; phát huy nội lực là chính; kết hợp chặt chẽ giữa các mặt, yếu tố, tạo sức mạnh tổng hợp bảo vệ Tổ quốc. Kiên trì đường lối quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân gắn với đẩy mạnh chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa, thêm bạn, bớt thù, vừa hợp tác, vừa đấu tranh. Chủ động ngăn chặn, đẩy lùi nguy cơ xung đột và chiến tranh, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, từ khi nước chưa nguy; kiên quyết đánh bại mọi hành động xâm lược bằng sức mạnh tổng hợp, lấy lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt,… không để đất nước bị bất ngờ về chiến lược.

Về phương châm, thực hiện “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, lấy lợi ích quốc gia - dân tộc là bất biến; đồng thời, khẳng định phương thức đấu tranh trong lĩnh vực quốc phòng là “kiên trì giải quyết tranh chấp, mâu thuẫn bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế” làm cơ bản, song phải kiên định mục tiêu chiến lược. Kết hợp chặt chẽ đấu tranh phi vũ trang và vũ trang, nhấn mạnh đấu tranh phi vũ trang, nhưng tích cực chuẩn bị sức mạnh quốc phòng của đất nước, sẵn sàng đánh thắng các hành động xâm lược dưới mọi quy mô, hình thức.

Về nhiệm vụ và giải pháp, Chiến lược Quốc phòng cụ thể hóa đường lối của Đảng về xây dựng nền quốc phòng toàn dân và đấu tranh quốc phòng. Nhấn mạnh xây dựng Đảng, Nhà nước, “thế trận lòng dân” gắn với phát triển đất nước giàu mạnh kết hợp với tăng cường sức mạnh quốc phòng, an ninh. Đồng thời, khẳng định tiếp tục xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh; đẩy mạnh phát triển công nghiệp quốc phòng, khoa học nghệ thuật quân sự; tích cực, chủ động hội nhập quốc tế và đối ngoại về quốc phòng trong tình hình mới, v.v. Đây là những nội dung căn cốt nhất của Chiến lược Quốc phòng, đòi hỏi sự nghiên cứu, quán triệt sâu sắc cả về lý luận và thực tiễn, làm cơ sở trong triển khai thực hiện. Đặc biệt, trong bối cảnh chung của tình hình thế giới, khu vực luôn biến động, thay đổi nhanh chóng, khó lường, tác động không nhỏ đến cách mạng nước ta, việc quán triệt, thực hiện Chiến lược phải luôn thấu suốt quan điểm: “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, giữ vững mục tiêu chiến lược: độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong suốt tiến trình cách mạng.

Ba là, xác định đúng cơ sở chủ yếu để chỉ đạo Chiến lược Quân sự, nghệ thuật chiến dịch và chiến thuật, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Trong hệ thống các chiến lược nói chung, Chiến lược Quốc phòng nói riêng, dù ra đời trong thời điểm và dưới hình thức nào cũng đều có chức năng cơ bản: cụ thể hóa quan điểm, đường lối của Đảng và chỉ đạo hoạt động thực tiễn. Để thực hiện tốt chức năng đó, về mặt lý luận, Chiến lược Quốc phòng Việt Nam xác định những cơ sở chủ yếu để chỉ đạo, bổ sung và phát triển ngày càng hoàn thiện hệ thống lý luận cơ bản về quốc phòng phục vụ nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu của lực lượng vũ trang và bồi dưỡng kiến thức quốc phòng và an ninh cho các đối tượng, v.v. Về thực tiễn, Chiến lược Quốc phòng là văn bản pháp lý cơ bản để lãnh đạo, chỉ đạo, chỉ huy, điều hành thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, đấu tranh quốc phòng và sự phối hợp các hoạt động quốc phòng với an ninh, đối ngoại, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội,… trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc; trong đó, những cơ sở chủ yếu để chỉ đạo Chiến lược Quân sự là vấn đề quan trọng nhất.

Theo đó, Chiến lược Quốc phòng tập trung chỉ đạo Chiến lược Quân sự về dự báo các hình thái chiến tranh có thể xảy ra; xác định đối tượng tác chiến; phương thức tiến hành chiến tranh, phương thức tác chiến cùng các loại hình tác chiến chiến lược trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời, chỉ đạo việc tổ chức, sử dụng và bố trí lực lượng trên phạm vi cả nước để hình thành thế trận tác chiến chiến lược,… coi trọng nâng cao sức mạnh quân sự nhà nước, mà nòng cốt là sức mạnh của Quân đội nhân dân, tạo sức mạnh răn đe và đánh thắng trong các tình huống quốc phòng, quân sự (nếu xảy ra).

Cùng với đó, Chiến lược Quốc phòng còn chỉ đạo các vấn đề của chiến dịch và chiến thuật trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, nhất là chỉ đạo nghiên cứu các loại hình chiến dịch, hình thức chiến thuật mới; bổ sung, phát triển phương pháp tác chiến chiến dịch, cách đánh chiến thuật trong điều kiện chiến tranh địch sử dụng vũ khí công nghệ cao. Ngoài ra, Chiến lược Quốc phòng còn chỉ đạo xây dựng lực lượng quốc phòng, lực lượng vũ trang nhân dân, mà trực tiếp là xây dựng Quân đội nhân dân về chính trị; tổ chức biên chế, trang bị và huấn luyện,… phù hợp với điều kiện tác chiến mới.

Như vậy, có thể thấy, Chiến lược Quốc phòng không chỉ có nội dung rộng, bao hàm những vấn đề lý luận cơ bản, toàn diện, mà còn mang tính chỉ đạo xuyên suốt sự nghiệp quốc phòng. Đó vừa là mục tiêu đặt ra đối với Chiến lược Quốc phòng Việt Nam thời kỳ mới, vừa là nhiệm vụ trọng yếu của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Điều đó đòi hỏi chúng ta phải thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ, phù hợp, trên cơ sở nhận thức đúng đắn, đầy đủ về Chiến lược Quốc phòng, góp phần phát triển lý luận về Bảo vệ Tổ quốc của Đảng trong thời đại hiện nay.

Trung tướng, PGS, TS. TRẦN THÁI BÌNH

Ý kiến bạn đọc (0)

Đoàn kiểm tra của Ban Bí thư Trung ương Đảng làm việc với Ban cán sự Đảng bộ Tài chính
Sáng 27-9, Thượng tướng Ngô Xuân Lịch, Bí thư Trung ương Đảng, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, Trưởng đoàn kiểm tra của Ban Bí thư Trung ương Đảng làm việc với Ban cán sự Đảng Bộ Tài chính về kết quả thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI),...