Sự kiện lịch sử Những ngày kỷ niệm lớn

QPTD -Thứ Năm, 27/04/2017, 08:05 (GMT+7)
Kỷ niệm 100 năm Ngày sinh Đại tướng Văn Tiến Dũng (02-5-1917 – 02-5-2017)
Những cống hiến to lớn của Đồng chí Đại tướng Văn Tiến Dũng với cách mạng Việt Nam
 Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Đại tướng Văn Tiến Dũng gặp lại nhau
sau giải phóng Sài Gòn, ngày 5-5-1975 (Ảnh tư liệu).

Đồng chí Đại tướng Văn Tiến Dũng, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Bí thư Quân ủy Trung ương, nguyên Bộ trưởng Bộ Quốc phòng là một trong những học trò ưu tú của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Sinh ra và lớn lên ở Hà Nội, Đồng chí giác ngộ lý tưởng cộng sản, chủ nghĩa yêu nước và tham gia cách mạng từ rất sớm. Năm 1934 (khi mới 17 tuổi), Đồng chí đã lăn lộn hoạt động cùng giới thợ thuyền Hà Thành, được tôi luyện trong phong trào công nhân và sớm trở thành người chiến sĩ cách mạng kiên trung của Đảng và sau này Đồng chí thực sự là một nhà quân sự, chính trị mưu lược, vị tướng lĩnh chỉ huy - tham mưu chiến lược xuất sắc, có uy tín của Đảng và Quân đội.

Hơn 65 năm hoạt động cách mạng, dù ở bất kỳ cương vị công tác, điều kiện hoàn cảnh nào, trong lao tù hay ngoài mặt trận, đồng chí Đại tướng Văn Tiến Dũng vẫn luôn trung thành vô hạn với lý tưởng cách mạng, với Đảng, với nhân dân, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Đồng chí là tấm gương sáng về phẩm chất của người cán bộ cách mạng, “tận trung với nước, tận hiếu với dân”, nêu cao đức hy sinh, lòng dũng cảm, trí thông minh, sống trung thực, giản dị, chan hòa, gần gũi với cán bộ, chiến sĩ, đồng bào, đồng chí. Là một đảng viên cộng sản kiên trung, rất mực trung thành, tận tụy, suốt đời chiến đấu vì lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của nhân dân, đồng chí Đại tướng Văn Tiến Dũng đã có nhiều cống hiến cho cách mạng Việt Nam, trên nhiều lĩnh vực, được thể hiện ở các nội dung cơ bản sau:

1. Người cộng sản, chiến sĩ cách mạng kiên trung của Đảng trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập, tự do của dân tộc

Đồng chí Đại tướng Văn Tiến Dũng đã giác ngộ và bước vào hoạt động cách mạng bằng việc tham gia các tổ chức quần chúng lao động. Năm 1936, khi còn là thợ dệt ở Hà Nội, Đồng chí đã tham gia đấu tranh và hoạt động hăng hái trong phong trào dân chủ do Đảng Cộng sản Đông Dương phát động, nhằm chống chế độ bóc lột hà khắc của thực dân Pháp và đòi các quyền dân chủ, dân sinh của người lao động. Với bầu nhiệt huyết cách mạng và chí khí đấu tranh cùng năng lực tổ chức hoạt động, đã được tôi luyện trong phong trào công nhân, Đồng chí được Đảng tin tưởng, giao nhiệm vụ trong Ban lãnh đạo Hội Ái hữu thợ dệt khi mới tròn 20 tuổi. Tại đây, Đồng chí đã tham gia tuyên truyền, giáo dục và tổ chức các hội Ái hữu hoạt động hướng vào đòi giới chủ phải bảo đảm quyền dân sinh, dân chủ, tăng lương, giảm giờ làm, v.v. Ba lần bị bắt, bỏ tù, giam cầm, tra tấn rất dã man nhưng không khuất phục được ý chí cách mạng của người thanh niên cộng sản giàu lý tưởng và nghị lực Văn Tiến Dũng. Thậm chí, trong các lần tù đầy ấy, Đồng chí đã dũng cảm vượt ngục và bị mất liên lạc với tổ chức, nhưng vẫn kiên trì che mắt địch để hoạt động và liên lạc với Đảng.

Do được tôi luyện trong thực tiễn đấu tranh, tuyệt đối trung thành với Đảng, lại chịu khó ham học hỏi, tự tìm hiểu nên mặc dù tuổi đời còn trẻ, Đồng chí đã có nhãn quan chính trị sâu sắc, hiểu rõ mục đích của cách mạng thuộc địa và sớm được Đảng giao nhiều trọng trách, với các cương vị: Thư ký Ban Thường trực Liên đoàn lao động Hà Nội (năm 1938), Bí thư Đảng bộ Bắc Ninh (tháng 01-1944), Bí thư Xứ ủy Bắc Kỳ (tháng 4-1944), Ủy viên Thường vụ Ủy ban Quân sự cách mạng Bắc Kỳ (năm 1945). Đặc biệt, tháng 5/1945, Đồng chí còn được Trung ương Đảng chỉ định trực tiếp phụ trách xây dựng và chỉ huy Chiến khu Quang Trung1, nhằm đẩy mạnh việc chuẩn bị cho khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền ở các địa phương và cả nước. Đây là nhiệm vụ rất nặng nề, quan trọng nhất của cách mạng Việt Nam trong thời điểm này, bởi Chiến khu Quang Trung rộng, vừa có đồng bằng, vừa có rừng núi điệp trùng, lại có các đô thị loại vừa và là xung yếu án ngữ các huyết mạch giao thông Bắc - Nam Đông Dương nên kẻ địch thường xuyên kiểm soát gắt gao. Trên cơ sở nắm chắc đường lối, chủ trương chỉ đạo khởi nghĩa vũ trang của Đảng và địa bàn, Đồng chí đã nghiên cứu nắm chắc tình hình, tích cực chỉ đạo, hướng dẫn các địa phương mở rộng phong trào cứu quốc, tổ chức quần chúng đấu tranh kết hợp với đẩy mạnh xây dựng các đội tự vệ, du kích, xây dựng căn cứ địa cách mạng, tạo cơ sở để tiến hành chiến tranh du kích, khởi nghĩa từng phần ở những nơi có điều kiện, tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền khi thời cơ đến. Đồng chí đã yêu cầu các địa phương phải làm tốt công tác tuyên truyền để nhân dân hiểu rõ nhiệm vụ, mục tiêu của cách mạng và âm mưu, thủ đoạn của thực dân Pháp cùng bè lũ tay sai. Do chủ trương đúng, phương châm chỉ đạo và cách thức thực hiện phù hợp, nên đã từng bước hình thành các đội tự vệ, du kích, thậm chí có địa phương phát triển thành các đội cứu quốc quân. Chỉ trong thời gian ngắn, phong trào Việt Minh ở Chiến khu Quang Trung phát triển mạnh mẽ, rộng khắp, hình thành nhiều căn cứ kháng chiến, như: Quỳnh Lưu (Ninh Bình), Ngọc Trạo (Thanh Hóa),… Nhờ đó, khi Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc phát lệnh Tổng khởi nghĩa, mặc dù bị địch kiểm soát gắt gao, nhưng các tỉnh Hòa Bình, Ninh Bình, Thanh Hóa đã đồng loạt vùng lên, giành chính quyền về tay nhân dân. Trong thắng lợi này, nhân tố quyết định là sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng và sự tham gia tích cực của quần chúng nhân dân trong địa bàn Chiến khu; trong đó có phần đóng góp quan trọng của đồng chí Văn Tiến Dũng với vai trò người tổ chức và chỉ đạo trực tiếp.

2. Người cán bộ chính trị mẫu mực, tài năng về chỉ đạo hoạt động công tác đảng, công tác chính trị, xây dựng Quân đội nhân dân vững mạnh về chính trị

Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đồng chí Văn Tiến Dũng tham gia hoạt động công tác trong Quân đội. Với trình độ lý luận và kinh nghiệm thực tiễn phong phú về công tác đảng, công tác chính trị, ngay trước khi hợp nhất hai Cục Chính trị (Bộ Quốc phòng và Quân sự ủy viên hội)2, ngày 20-11-1946, Đồng chí được bổ nhiệm cương vị Chính trị phó cục trưởng phụ trách Cục Chính trị (theo Sắc lệnh 214/SL-CP của Chủ tịch Chính phủ Việt Nam dân chủ Cộng hòa) có nhiệm vụ trực tiếp giúp Bí thư Trung ương Quân ủy - Tổng Chỉ huy chỉ đạo công tác chính trị trong quân đội và dân quân. Là Cục trưởng Cục Chính trị đầu tiên - người đứng đầu cơ quan chỉ đạo chiến lược về công tác đảng, công tác chính trị trong Quân đội, đồng chí Đại tướng Văn Tiến Dũng đã có đóng góp quan trọng vào việc củng cố, kiện toàn hệ thống cơ quan chính trị các cấp; xây dựng nền nếp công tác chính trị và chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ chính trị toàn quân.

Trước thực trạng của công tác chính trị trong Quân đội lúc bấy giờ và từ đòi hỏi của thực tiễn, Đồng chí đã chủ động tham mưu với Trung ương và Bộ Quốc phòng mở các trường đào tạo cán bộ Quân đội và kịp thời chỉ đạo một số mặt công tác cấp bách trên lĩnh vực quan trọng này. Theo Đồng chí, để nâng cao hiệu quả công tác đảng, công tác chính trị của toàn quân trong kháng chiến, các cấp cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền cổ động, công tác địch vận và công tác huấn luyện chính trị cho cán bộ, chiến sĩ. Trong đó, xác định vấn đề đầu tiên là phải “coi trọng công tác giáo dục chính trị, nâng cao nhận thức tư tưởng, giác ngộ giai cấp cho mọi cán bộ, chiến sĩ, làm cho mọi người hiểu rõ tính chất chính nghĩa của cuộc kháng chiến, vì ai mà chiến đấu, ai là bạn, ai là thù; đồng thời, khắc phục tư tưởng quân sự thuần túy, coi nhẹ công tác chính trị, v.v. Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Đồng chí, Hội nghị chính trị viên toàn quốc lần thứ nhất (tháng 2-1947) đã đề ra 12 điều kỷ luật dân vận, 10 nhiệm vụ của công tác chính trị trong Quân đội cũng như quyết nghị xây dựng chế độ công tác chính trị; kiện toàn tổ chức cơ quan công tác chính trị trong toàn quân, trong đó xác định đại đội là đơn vị căn bản của công tác chính trị trong Quân đội. Đây là những vấn đề rất quan trọng, làm cơ sở để Trung ương Đảng ra nghị quyết về tổ chức đảng trong Quân đội theo hệ thống chặt chẽ, thống nhất. Việc làm đó đã góp phần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội, giữ vững và phát huy tinh thần chiến đấu, đáp ứng đòi hỏi cuộc kháng chiến chống Pháp trường kỳ của dân tộc.

Đặc biệt, vào giữa năm 1949, khi cuộc kháng chiến chống Pháp bước vào giai đoạn quyết liệt, ở một số đơn vị có cán bộ nhận thức chưa đúng về cuộc kháng chiến, thậm chí có tư tưởng tuyệt đối hóa vai trò của công tác quân sự, coi đó là giải pháp của mọi vấn đề và xem công tác chính trị chỉ là phụ. Điều đó dẫn tới thói kiêu căng, bản vị, thắng thì kiêu, bại thì nản, coi thường hệ thống công tác chính trị trong Quân đội. Trước tình hình đó, tại Hội nghị “Rèn cán bộ, chấn chỉnh Quân đội” (tháng 5-1949), đồng chí Văn Tiến Dũng đã phân tích và thẳng thắn phê phán quan điểm quân sự thuần túy nêu trên; chỉ ra nguyên nhân của tình trạng này và đề xuất với Trung ương và Bộ Tổng Chỉ huy tiếp tục “Nâng cao trình độ chính trị của Quân đội, giáo dục phương pháp nhận xét theo lối biện chứng; đưa các hiện tượng thuần túy quân sự ra nhận xét, mổ xẻ; dựa trên nền tảng nhân dân cách mạng mà giáo dục bộ đội; phải phân quyền giữa đội trưởng và chính trị viên dứt khoát”3. Đồng thời, Đồng chí yêu cầu các cơ quan, đơn vị cần kết hợp chặt chẽ giữa công tác giáo dục chính trị, tư tưởng với công tác tuyên truyền và công tác địch vận trong chiến đấu để Quân đội làm tròn nhiệm vụ mà nhân dân đã giao phó. Đây là những vấn đề có tính nền tảng, góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, hệ thống cơ quan công tác chính trị và cán bộ chính trị trong Quân đội.

3. Vị tướng thao lược, người chỉ huy quân sự tài ba của Quân đội trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, đồng chí Văn Tiến Dũng được cử làm Chính trị ủy viên Liên khu 3, rồi Chính ủy kiêm Tư lệnh Đại đoàn 320 (Đại đoàn Đồng Bằng). Đồng chí đã bám sát thực tiễn, vận dụng đúng đắn, sáng tạo quan điểm chiến tranh nhân dân của Đảng vào điều kiện cụ thể của địa bàn, theo phương châm: dựa vào dân mà chiến đấu và giành nhiều thắng lợi quan trọng trong các chiến dịch: Hoàng Hoa Thám, Quang Trung, Hòa Bình. Đặc biệt, năm 1951, Đồng chí đã chỉ huy một đơn vị chủ lực, thực hiện thọc sâu vào khu vực Bùi Chu - Phát Diệm đánh tiêu diệt một số đồn bốt địch, diệt ác, phá tề, làm tan rã hệ thống ngụy quyền phản động. Đây là một chủ trương rất táo bạo, vận dụng loại hình chiến thuật mới để đánh “nở hoa” trong lòng địch, khiến thực dân Pháp và tay sai bất ngờ, khiếp sợ.

Với tư chất của một nhà chỉ huy quân sự mưu lược, quyết đoán và dũng cảm, tháng 11-1953, đồng chí Đại tướng Văn Tiến Dũng được Đảng, Bác Hồ giao nhiệm vụ là Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam và tham gia Tổng Quân ủy. Trên cương vị này, đồng chí Đại tướng Văn Tiến Dũng đã cùng với các đồng chí trong Tổng Quân ủy, Bộ Tổng tham mưu hoạch định và tổ chức thực hiện thành công nhiều kế hoạch tác chiến chiến lược, như: cuộc tiến công chiến lược Đông - Xuân 1953 - 1954, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Pháp, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân (1968), cuộc tiến công chiến lược năm 1972 và cuộc Tổng tiến công chiến lược năm 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Qua đó, Đồng chí đã tỏ rõ là một tài năng quân sự xuất chúng, nhà tham mưu chiến lược tài ba không chỉ trong hoạch định tác chiến chiến dịch, chiến lược, mà cả trong xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, Quân đội nhân dân, củng cố nền quốc phòng toàn dân, bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Không những thế, đồng chí Đại tướng Văn Tiến Dũng nhiều lần được Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh phái đến các mặt trận để trực tiếp chỉ đạo tác chiến, điển hình là Chiến dịch Đường 9 - Nam Lào năm 1971, Chiến dịch Trị - Thiên năm 1972, Chiến dịch Tây Nguyên tháng 3-1975, v.v. Đặc biệt, trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử (tháng 4-1975), Đồng chí đã được cử làm Tư lệnh. Với tài năng quân sự và sự quyết đoán của người chỉ huy ở tầm chiến lược, Đồng chí đã quyết định thay đổi phương pháp tác chiến, chuyển hướng tiến công của Quân đoàn 4 từ tiến công thị xã Xuân Lộc sang bao vây, đánh địch vòng ngoài, chia cắt Xuân Lộc với Biên Hòa, phá toang “cánh cửa thép” của tuyến phòng thủ cuối cùng của ngụy quyền Sài Gòn, tạo điều kiện để đại quân ta thọc sâu vào nội đô, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Bước vào thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng chí Đại tướng Văn Tiến Dũng tiếp tục có những cống hiến to lớn trong chỉ đạo tổ chức củng cố vùng giải phóng, khắc phục hậu quả chiến tranh và triển khai tổ chức thực hiện nhiệm vụ xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, trọng tâm là xây dựng Quân đội nhân dân, củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Cùng với coi trọng xây dựng bộ đội chủ lực, Đồng chí rất quan tâm xây dựng lực lượng vũ trang địa phương, phát huy sức mạnh tổng hợp của từng thứ quân trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Thấu suốt quan điểm chiến tranh nhân dân, quốc phòng toàn dân của Đảng và với sự trải nghiệm thực tiễn dày dạn, Đồng chí luôn nhấn mạnh: “phương thức tiến hành chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc cần phải kết hợp chặt chẽ giữa tác chiến của các binh đoàn chủ lực với tác chiến của chiến tranh nhân dân địa phương”. Vì thế, chủ trương chiến lược của Đảng ta về xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố vững chắc hiện nay có phần đóng góp to lớn của Đồng chí ở cả phương diện lý luận và thực tiễn.

4. Nhà lý luận - khoa học quân sự có nhiều đóng góp lớn vào sự phát triển của nền khoa học nghệ thuật quân sự Việt Nam

Hơn 65 năm hoạt động cách mạng, đồng chí Văn Tiến Dũng có trên 45 năm công tác trong Quân đội. Đây là giai đoạn để Đại tướng hình thành, phát triển tư duy quân sự và khẳng định mình trong bối cảnh đất nước tiến hành hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, chiến tranh biên giới, thực hiện nhiệm vụ quốc tế, củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Sự phát triển tư duy quân sự của Đồng chí khá phong phú, toàn diện và có đóng góp lớn đối với nền khoa học nghệ thuật quân sự Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh. Đó là nền khoa học nghệ thuật quân sự được hình thành trên cơ sở kết hợp nghệ thuật quân sự truyền thống của dân tộc với nghệ thuật quân sự hiện đại.

Đóng góp nổi bật của Đại tướng Văn Tiến Dũng là góp phần hoàn thiện lý luận quân sự, nghệ thuật quân sự của chiến tranh nhân dân Việt Nam; nghệ thuật tổ chức lực lượng vũ trang nhân dân ba thứ quân, nòng cốt là Quân đội nhân dân; nghệ thuật tác chiến chiến dịch, chiến lược với các loại hình cơ bản: tiến công, phòng ngự, phản công, v.v. Đặc biệt, với cương vị Tổng Tham mưu trưởng Quân đội trong nhiều năm, Đồng chí đã chỉ đạo tác chiến chiến lược sắc sảo, có hiệu quả, hạn chế thiệt hại của ta. Theo Đồng chí, việc sử dụng lực lượng tác chiến phải rất linh hoạt, phải trên cơ sở đánh giá đúng tương quan lực lượng địch, ta trên chiến trường để sử dụng cho phù hợp; khi cần thiết có thể tập trung ưu thế hơn hẳn địch để giành thắng lợi quyết định. Trong vận dụng cách đánh (cả ở cấp chiến lược, chiến dịch và chiến đấu), đồng chí Đại tướng Văn Tiến Dũng là một trong những vị tướng có công phát triển sáng tạo cách đánh thọc sâu lên tầm cao mới trong hai cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm của dân tộc. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, vận dụng cách đánh này, Đại đoàn 320 dưới sự chỉ huy của Đồng chí đã mở 6 chiến dịch tiến công thọc sâu vào vùng đồng bằng sau lưng địch, mở toang nhiều vùng giải phóng, phát triển chiến tranh du kích, hình thành thế trận chiến tranh nhân dân tiến công địch ngay trong vùng đồng bằng sông Hồng, gây rúng động lớn trong hàng ngũ địch. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, cách đánh thọc sâu tiếp tục được nhân rộng, phát triển đạt hiệu quả tích cực. Đặc biệt, trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, với vai trò là Tư lệnh Chiến dịch, đồng chí Đại tướng Văn Tiến Dũng đã chỉ đạo đánh thọc sâu, cơ động nhanh, với lực lượng lớn vào các mục tiêu trọng yếu, giải phóng Sài Gòn trong trạng thái thành phố hầu như còn nguyên vẹn. Thực tiễn chiến tranh đã chứng minh, các quyết định đánh thọc sâu ở tầm chiến lược, chiến dịch, chiến thuật là những bài học thành công, thắng lợi lớn của Quân đội ta. Đó cũng là bài học mang dấu ấn sâu sắc về tư duy quân sự, nghệ thuật chỉ đạo, chỉ huy tác chiến của đồng chí Đại tướng Văn Tiến Dũng đối với nền khoa học nghệ thuật quân sự Việt Nam.

5. Đóng góp quan trọng của Đại tướng Văn Tiến Dũng trên mặt trận ngoại giao

Là chiến sĩ cộng sản kiên cường, được tôi luyện trong phong trào công nhân và nhà tù của thực dân, đế quốc, đồng chí Đại tướng Văn Tiến Dũng hiểu rõ bản chất ngoan cố, hiếu chiến, xâm lược của kẻ thù và vai trò của công tác đối ngoại trong chiến tranh. Vì thế, dù ở cương vị nào, Đồng chí cũng luôn giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ làm tốt công tác địch vận và xác định đó là một trong những nhân tố quan trọng tạo nên sức mạnh tổng hợp để giành thắng lợi trong chiến tranh. Tháng 7-1954, khi được giao nhiệm vụ làm Trưởng phái đoàn đàm phán Việt Nam tại Hội nghị Trung Giã, nhằm giải quyết những điều khoản của Hiệp định Giơ-ne-vơ về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương, đồng chí Đại tướng Văn Tiến Dũng đã quán triệt nghiêm túc và chuẩn bị mọi mặt chu đáo trong tư thế của người chiến thắng; thể hiện phong cách ngoại giao tự tin và hết sức nghiêm cẩn của Đồng chí nhằm đề phòng mọi bất trắc có thể xảy ra. Không ngoài dự đoán của Đồng chí, một trong các nội dung đấu tranh căng thẳng, phức tạp (kéo dài tới 7 phiên họp) là bàn về vấn đề “ngừng bắn và trao trả tù binh”. Với nhãn quan chính trị sâu rộng, tư duy ngoại giao sắc sảo, nhạy bén linh hoạt, Đồng chí đã kiên trì, mềm dẻo, nhưng kiên quyết đấu tranh buộc đối phương phải chấp nhận đề xuất có lợi cho ta, nhất là điều khoản về thời gian trao trả tù binh. Hơn thế, Đoàn Việt Nam còn yêu cầu Pháp giúp máy bay chở ba đoàn sĩ quan ta đi truyền đạt lệnh ngừng bắn ở Bình - Trị - Thiên, Khu 5 và Nam Bộ. Sau này, một số sĩ quan Pháp tham gia Hội nghị Trung Giã đã phải thừa nhận rằng: Tướng Dũng của Việt Nam thái độ thì điềm đạm, bình tĩnh, tế nhị, nhưng ông ta không chịu thua trong đàm phán.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, trước mọi khó khăn thách thức, bản lĩnh, tư chất ngoại giao của đồng chí Đại tướng Văn Tiến Dũng tiếp tục được phát huy. Thừa lệnh của Trung ương Đảng, Chính phủ, Đồng chí đã thực hiện thành công nhiều cuộc tiếp xúc, quan hệ đối ngoại với các nước bạn, các nước xã hội chủ nghĩa, nhất là Trung Quốc và Liên Xô; thu hút được trí tuệ, sự đồng thuận, ủng hộ, giúp đỡ quý báu cả về tinh thần và vật chất, vũ khí, trang bị kỹ thuật cho cuộc chiến tranh chính nghĩa của nhân dân ta chống kẻ thù xâm lược.

Sau thắng lợi năm 1975, cả nước thống nhất, bắt tay vào thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, vị thế quốc tế nước ta được nâng lên một bước. Thực hiện Hiệp ước Hữu nghị và hợp tác Việt - Xô (tháng 11-1980), Liên Xô tăng cường viện trợ quân sự cho ta. Cùng với trang bị kỹ thuật hiện đại mà bạn giúp đỡ còn có các chuyên gia quân sự. Đồng chí Đại tướng Văn Tiến Dũng rất coi trọng công tác chuyên gia, luôn chỉ đạo bảo đảm tốt đời sống vật chất, tinh thần và phát huy trình độ, kiến thức và kinh nghiệm của đội ngũ này. Đồng thời, Đại tướng cũng lưu ý cán bộ kỹ thuật Việt Nam phải có tinh thần độc lập tự chủ, biết vận dụng các vấn đề cơ bản mà bạn truyền đạt vào tình hình thực tế của ta. Cần làm cho bạn hiểu biết truyền thống và đặc điểm tình hình của ta để bạn giúp ta có hiệu quả. Đồng chí còn nêu cao và động viên cấp dưới có tinh thần mạnh dạn, quyết đoán và táo bạo trên cơ sở lý luận khoa học; thường xuyên rèn luyện tính tổ chức kỷ luật cao trong chấp hành các mệnh lệnh, nguyên tắc, v.v. Kết quả hoạt động đối ngoại của đồng chí Đại tướng Văn Tiến Dũng đã có những đóng góp tích cực vào nền ngoại giao Việt Nam qua các thời kỳ, nhất là trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Kỷ niệm 100 năm ngày sinh của đồng chí Đại tướng Văn Tiến Dũng, chúng ta càng thấy rõ hơn những cống hiến to lớn của Đồng chí đối với cách mạng Việt Nam, với dân tộc và Quân đội ta. Tự hào về người chiến sĩ cộng sản kiên trung, mẫu mực, vị Đại tướng mưu lược, nhà ngoại giao ưu tú Văn Tiến Dũng, cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam nguyện ra sức phấn đấu, rèn luyện, học tập, noi theo.     

Đại tướng NGÔ XUÂN LỊCH, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư Quân ủy Trung ương
Bộ trưởng Bộ Quốc phòng
______________________

1 - Gồm các tỉnh: Hòa Bình, Ninh Bình và Thanh Hóa.

2 - Ngày 30-11-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 230/SL-CP, bổ nhiệm đồng chí Võ Nguyên Giáp làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng - Tổng chỉ huy và hợp nhất hai Cục Chính trị Bộ Quốc phòng và Quân sự ủy viên hội trong cơ quan Bộ Quốc phòng - Tổng chỉ huy Quân đội quốc gia và Dân quân Việt Nam.

3 -  Tổng cục Chính trị - Quá trình hình thành, Tập 1, Nxb QĐND, tr. 243 - 244.

Ý kiến bạn đọc (0)

Bộ trưởng Bộ Quốc phòng chúc mừng các nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục trong Quân đội
Nhân dịp kỷ niệm 42 năm Ngày Nhà giáo Việt Nam (20/11/1982 - 20/11/2024), Đại tướng Phan Văn Giang, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng gửi thư chúc mừng các thế hệ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục đã và đang công tác trong Quân đội. Tạp chí Quốc phòng toàn dân điện tử trân trọng giới thiệu toàn văn Bức thư.