QPTD -Thứ Ba, 15/07/2014, 09:24 (GMT+7)
Thông tin về biển, đảo Việt Nam
Quy định của Luật biển Việt Nam về vùng đặc quyền kinh tế

Theo Luật Biển Việt Nam, vùng biển nước ta bao gồm: nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa cùng các đảo và quần đảo. Trong đó, “vùng đặc quyền kinh tế là vùng biển tiếp liền và nằm ngoài lãnh hải Việt Nam, hợp với lãnh hải thành một vùng biển có chiều rộng 200 hải lý tính từ đường cơ sở” (Điều 15). Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (gọi tắt là Công ước về Luật Biển năm 1982) quy định: “Vùng đặc quyền kinh tế là một vùng nằm ở phía ngoài lãnh hải và tiếp liền với lãnh hải” (Điều 55) và “không mở rộng ra quá 200 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải” (Điều 57). Như vậy, về vị trí và phạm vi vùng đặc quyền kinh tế của Luật Biển Việt Nam là thống nhất với Công ước về Luật Biển năm 1982.

Về chế độ pháp lý1, Điều 16 của Luật Biển Việt Nam quy định: “1. Trong vùng đặc quyền kinh tế, Nhà nước thực hiện: a) Quyền chủ quyền về thăm dò, khai thác, quản lý và bảo tồn tài nguyên thuộc vùng nước bên trên đáy biển, đáy biển và lòng đất dưới đáy biển…; b) Quyền tài phán quốc gia về lắp đặt và sử dụng đảo nhân tạo, thiết bị và công trình trên biển…; c) Các quyền và nghĩa vụ khác phù hợp với luật pháp quốc tế. 2. Nhà nước tôn trọng quyền tự do hàng hải, hàng không; quyền đặt dây cáp và ống dẫn ngầm…, theo quy định của Luật này và điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là thành viên, không làm phương hại đến chủ quyền, quyền tài phán quốc gia và lợi ích quốc gia trên biển của Việt Nam… 3. Tổ chức, cá nhân nước ngoài được tham gia thăm dò, sử dụng, khai thác tài nguyên, nghiên cứu khoa học, lắp đặt các thiết bị và công trình trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam trên cơ sở các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là thành viên, hợp đồng được ký kết theo quy định của pháp luật Việt Nam hoặc được phép của Chính phủ Việt Nam…”. Điều này có nghĩa là, các tổ chức, cá nhân nước ngoài có hành động thăm dò, sử dụng, khai thác tài nguyên, nghiên cứu khoa học, lắp đặt các thiết bị và công trình trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam khi chưa được Chính phủ hoặc cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước Việt Nam cho phép, đều vi phạm pháp luật Việt Nam và công ước quốc tế mà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là thành viên. Về vấn đề này, Công ước về Luật Biển năm 1982 (tại các điều 56, 60) cũng quy định rõ các quyền thuộc chủ quyền, quyền tài phán quốc gia, các quyền và nghĩa vụ khác của các quốc gia ven biển đối với vùng đặc quyền kinh tế2. Tại Điều 73 (Khoản 1), Công ước còn nhấn mạnh: “Trong việc thực hiện các quyền thuộc chủ quyền về thăm dò, khai thác, bảo tồn và quản lý các tài nguyên sinh vật của vùng đặc quyền kinh tế, quốc gia ven biển có thể thi hành mọi biện pháp cần thiết, kể cả việc khám xét, kiểm tra, bắt giữ và khởi tố tư pháp để bảo đảm việc tôn trọng các luật và quy định mà mình đã ban hành theo đúng Công ước”. Như vậy, quy định của Luật Biển Việt Nam về vùng đặc quyền kinh tế là phù hợp với Công ước về Luật Biển năm 1982.

Văn Doanh (thực hiện)
________

1 - Xem Vùng đặc quyền kinh tế theo Luật Biển Việt Nam, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, Số 5-2013, tr. 101.

2 - Xem Vùng tiếp giáp lãnh hải và Vùng đặc quyền kinh tế, Sđd, Số 3-2010, tr. 96.

Ý kiến bạn đọc (0)