Phát huy tinh thần Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975, xây dựng lực lượng Dân quân tự vệ vững mạnh, rộng khắp

Phát huy tinh thần Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975, xây dựng lực lượng Dân quân tự vệ vững mạnh, rộng khắp

QPTD -Thứ Ba, 28/04/2020, 16:41 (GMT+7)
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 giành thắng lợi, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, có sự đóng góp không nhỏ của lực lượng dân quân, tự vệ và du kích. Phát huy tinh thần đó, lực lượng Dân quân tự vệ hiện nay cần được xây dựng vững mạnh, rộng khắp; có tổ chức biên chế chặt chẽ, chất lượng chính trị cao, huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu tốt, hoạt động chiến đấu phòng thủ có hiệu quả, góp phần xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc ngay từ cơ sở.

TẠP CHÍ QUỐC PHÒNG TOÀN DÂN Số 4 - 2008

TẠP CHÍ QUỐC PHÒNG TOÀN DÂN Số 4 - 2008

QPTD -Thứ Tư, 27/07/2011, 14:27 (GMT+7)

Trận Buôn Ma Thuột - đỉnh cao của nghệ thuật chỉ đạo chiến dịch

Trận Buôn Ma Thuột - đỉnh cao của nghệ thuật chỉ đạo chiến dịch

QPTD -Thứ Tư, 23/02/2011, 15:12 (GMT+7)
Trận Buôn Ma Thuột - trận then chốt quyết định giành thắng lợi đã để lại nhiều bài học điển hình về nghệ thuật chỉ đạo chiến dịch. Nó cần được tiếp tục nghiên cứu, vận dụng trong điều kiện hiện nay. Chiến dịch Tây Nguyên là chiến dịch mở đầu cuộc Tổng tiến công chiến lược mùa Xuân 1975; trong đó, trận Buôn Ma Thuột là trận đánh mở đầu, trận then chốt quyết định, có tầm quan trọng đặc biệt, trực tiếp là với chiến dịch Tây Nguyên và ở góc độ nào đó, còn có ý nghĩa chiến lược đối với cuộc Tổng tiến công mùa Xuân 1975. Tây Nguyên là địa bàn chiến lược, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về quân sự đối với cả miền Nam. Nếu đánh và chiếm được Tây Nguyên sẽ chia cắt hoàn toàn hệ thống phòng ngự chiến lược của địch, buộc chúng lâm vào thế lúng túng, bị động đối phó; còn về phía ta có điều kiện phát triển lực lượng, tiếp tục triển khai hướng tiến công xuống các tỉnh ven biển, các tỉnh miền Đông Nam Bộ, góp phần thúc đẩy cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975 giành thắng lợi trong thời gian ngắn. Chiến dịch Tây Nguyên, vì thế, có ý nghĩa hết sức quan trọng, là sự lựa chọn rất đúng đắn, chính xác của ta. Theo đó, việc ta chọn Buôn Ma Thuột để đánh trận mở đầu, trận then chốt quyết định cũng vậy. Bởi vì, đánh chiếm được Buôn Ma Thuột sẽ tạo ra đột biến về chiến dịch, và chiến dịch Tây Nguyên thắng lợi sẽ dẫn đến đột biến về chiến lược, tạo nên bước ngoặt quyết định, phá vỡ thế phòng ngự chiến lược của địch. Cho nên, mục tiêu kế hoạch của chiến dịch Tây Nguyên là phải thực hiện bằng được quyết tâm đó, để tạo khí thế, cổ vũ tinh thần chiến đấu cho quân và dân không chỉ ở địa bàn chiến lược Tây Nguyên mà còn trên khắp chiến trường miền Nam. Qua đó, giáng những đòn chí mạng tiếp theo bằng những chiến dịch tiến công đánh bại ý chí chiến đấu của nguỵ quyền Sài Gòn, kết thúc thắng lợi cuộc Tổng tiến công chiến lược bằng chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Thắng lợi của trận then chốt quyết định - Buôn Ma Thuột đã thể hiện sự sắc sảo của nghệ thuật chỉ đạo chiến dịch, nhất là trong tổ chức, chỉ huy và điều hành chiến dịch của Bộ Tư lệnh chiến dịch. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thắng lợi của chiến dịch Tây Nguyên nói chung và trận Buôn Ma Thuột nói riêng; trong đó, trước hết là nghệ thuật sử dụng không gian và thời gian mở chiến dịch . Việc chọn Buôn Ma Thuột là trận đánh mở đầu, then chốt quyết định là vấn đề hết sức quan trọng đối với chiến dịch. Vì, Buôn Ma Thuột có vị trí quan trọng trong hệ thống phòng ngự của địch ở Tây Nguyên; diện tích rộng, bình độ thấp so với xung quanh, lại tương đối bằng phẳng, rải rác có một số điểm cao độc lập cách thị xã 2-15 km. Như vậy, đối với ta, sẽ thuận lợi cho quá trình cơ động, triển khai và che dấu lực lượng; còn với địch, khi bị tiến công sẽ khó giữ và khó cơ động ứng cứu, chi viện cho nhau. Đặc biệt, các mục tiêu của địch ở trong và xung quanh thị xã hầu hết là lộ thiên, dễ bị ta phát hiện và tiêu diệt. Thực tế đã diễn ra đúng như vậy. Chúng ta đã lợi dụng những yếu tố thuận lợi của địa hình để khai thác, khắc phục mặt yếu và phát huy mặt mạnh của ta; đồng thời, triệt để khoét sâu những điểm yếu và hạn chế những mặt mạnh của địch. Về mặt thời gian, thời điểm nổ súng tiến công của trận đánh Buôn Ma Thuột được Bộ Tư lệnh chiến dịch tính toán kỹ (2 giờ sáng ngày 10 tháng 3 ta mở màn chiến dịch và kết thúc vào lúc 10 giờ 30 phút ngày 11 tháng 3); đó là thời điểm thuận lợi nhất để tổ chức tiến công. Trong thời điểm này, mọi hoạt động của địch đều lỏng lẻo và mất cảnh giác, ta cơ động triển khai, bố trí đội hình tiến công bảo đảm giữ được bí mật; khi triển khai xong lực lượng tiến công thì gần sáng, sương mù tan, tạo thuận lợi cho ta phát hiện dễ dàng các mục tiêu lộ thiên của địch để thực hành tiến công tiêu diệt. Ngoài ra, còn có một yếu tố quyết định đến thời gian kết thúc trận đánh, đó là yếu tố về thời tiết. Đây là mùa khô, chưa có mưa, sông suối cạn, rất thuận tiện cho các phương tiện xe cơ giới phát huy được tính năng kĩ thuật, chiến thuật.    Một yếu tố hết sức quan trọng, góp ph

Chiến dịch Hồ Chí Minh - một điển hình của nghệ thuật tác chiến hiệp đồng binh chủng

Chiến dịch Hồ Chí Minh - một điển hình của nghệ thuật tác chiến hiệp đồng binh chủng

QPTD -Thứ Hai, 21/02/2011, 14:54 (GMT+7)
Chiến dịch Hồ Chí Minh là chiến dịch cuối cùng của Cuộc Tổng tiến công chiến lược, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của quân và dân ta. Nó là một điển hình của loại hình chiến dịch tiến công hiệp đồng binh chủng quy mô lớn, với đặc trưng “ thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng ” , giành thắng lợi hoàn toàn, triệt để, trong thời gian ngắn.   Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975 gồm ba chiến dịch kế tiếp: Chiến dịch Tây Nguyên, Chiến dịch Huế - Đà Nẵng và Chiến dịch Hồ Chí Minh. Thực chất, đây là ba đòn tiến công có ý nghĩa chiến lược, đánh dấu sự phát triển đến đỉnh cao nhất của nghệ thuật quân sự Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Trong đó, chiến dịch Hồ Chí Minh (26-4 - 30-4-1975) là một điển hình của loại hình chiến dịch tiến công hiệp đồng binh chủng quy mô lớn. Đây là chiến dịch đã tận dụng được và phát huy cao độ thế chiến lược do các chiến dịch trước (Tây Nguyên, Huế - Đà Nẵng) tạo ra để tập trung lực lượng với ưu thế áp đảo quân địch cả về lực lượng, thế trận và tinh thần. Chiến dịch đó phát huy cao nhất sức mạnh của các binh đoàn, binh chủng hợp thành với quy mô lớn nhất, đập tan tuyến phòng thủ của địch ở vòng ngoài; đánh thẳng vào trung tâm đầu não, sào huyệt của địch, kết hợp với nổi dậy của quần chúng, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975). Nét đặc sắc của Chiến dịch Hồ Chí Minh là: đã đánh giá đúng so sánh lực lượng địch - ta, kiên định thực hiện chủ trương của Bộ Chính tri, Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng Chỉ huy là tập trung lực lượng, chọn thời cơ, tiến công kiên quyết, thần tốc, táo bạo, bất ngờ, giành thắng lợi hoàn toàn và triệt để. Về địch , chúng đang ở thế “co cụm” phòng ngự, với lực lượng tập trung tương đương 2 quân đoàn, được trang bị vũ khí, phương tiện hiện đại cùng với số lượng khá lớn quân địa phương. Đây còn là “Thủ đô”, có các cơ quan đầu não của ngụy quyền, ngụy quân; chúng sẽ ngoan cố chống cự, mặc dù hoang mang, dao động. Cụ thể, lực lượng của chúng gồm: Quân đoàn 3 hoàn chỉnh (chỉ có Sư đoàn 18 bị tổn thất do mới bị đánh ở Xuân Lộc); lực lượng Tổng dự bị chiến lược (2 sư đoàn thiếu là: sư đoàn lính dù và thủy quân lục chiến); lực lượng Biệt khu Thủ đô bảo vệ nội thành; 4 sư đoàn dù (18, 5, 25, 22), 2 sư đoàn thiếu (dù và thủy quân lục chiến, mỗi sư đoàn còn 2 lữ đoàn); 3 liên đoàn biệt động quân, lữ đoàn 3 xe tăng-thiết giáp; 3 sân bay (kể cả sân bay Trà Nóc, Cần Thơ) với 1.360 phi cơ; hải quân còn 1.460 tàu, xuồng…; quân địa phương còn 7 liên đoàn bảo an, vài trăm trung đội dân vệ, 17.000 cảnh sát. Địch bố phòng thành 3 tuyến: tuyến ngoài cùng và tuyến 2, do 4 sư đoàn đảm nhiệm, bố trí trong các căn cứ trước đây thành các cụm cứ điểm mạnh ngăn chặn hướng tiến công của ta. Trong nội thành, phân thành 4 khu vực phòng thủ, do 2 sư đoàn (thiếu) dù và thủy quân lục chiến, 3 liên đoàn biệt động quân, các liên đoàn bảo an, các trung đội dân vệ và cảnh sát đảm nhiệm. Tổng quân số của địch ước khoảng 35 vạn (25 vạn quân chiến đấu, 10 vạn quân hậu cần). Về ta, lúc tập kết đầy đủ trước khi tiến công, bao gồm: 5 quân đoàn binh chủng hợp thành (15 sư đoàn); 1 lữ đoàn, 10 trung đoàn đặc công và bộ binh; 17 tiểu đoàn bộ binh và biệt động thuộc các tỉnh (thành phố); 35.000 cán bộ địa phương và hàng triệu quần chúng. Tổng quân số của ta: 28 vạn quân chiến đấu cùng 17 vạn quân hậu cần (45 vạn quân). So sánh lực lượng trong  chiến dịch: ta hơn địch 1,5 đến 2 lần; về lực lượng, ta có ưu thế về xe tăng, xe bọc thép và pháo binh, có pháo cao xạ bảo vệ trên không. Còn về nhân tố tinh thần, ý chí \quyết chiến, quyết thắng\ thì ta có ưu thế tuyệt đối so với quân địch. Nếu ta giải quyết tốt về cách đánh thì khả năng tiến công rất lớn, bảo đảm chắc thắng trong thời gian ngắn. Căn cứ vào quyết tâm và kế hoạch chiến dịch được phê chuẩn, Bộ Tư lệnh chiến dịch (BTLCD) tổ chức 5 cánh quân tiến công (đột phá, thọc sâu) trên 5 hướng vào 5 cụm mục tiêu chủ yếu . Cánh quân Đông Nam do Quân đoàn 2 đảm nhiệm, đột phá từ hướ

Quân đội nhân dân Việt Nam phát huy sức mạnh tổng hợp, xây dựng tiềm lực chính trị, tinh thần và tiềm lực quân sự, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới
Xây dựng tiềm lực chính trị, tinh thần, tiềm lực quân sự là vấn đề chiến lược và hệ trọng; là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân và cả hệ thống chính trị, trong đó Quân đội nhân dân là nòng cốt.