Sự kiện lịch sử Những ngày kỷ niệm lớn

QPTD -Chủ Nhật, 27/01/2013, 10:24 (GMT+7)
Kỷ niệm 40 năm ngày ký Hiệp định Pa-ri
Từ sách lược “đánh và đàm” đến Hiệp định Pa-ri

Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam đã để lại nhiều bài học quý; trong đó, bài học “vừa đánh, vừa đàm” giành thế chủ động để từng bước “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”, cần tiếp tục được nghiên cứu, vận dụng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Trong mùa khô 1965 - 1966, 1966 - 1967, Mỹ và chính quyền Sài Gòn liên tiếp mở hai cuộc phản công chiến lược trên chiến trường miền Nam nhằm “tìm diệt” chủ lực Quân giải phóng, giành lại thế chủ động chiến lược đã mất, “bình định” miền Nam; đồng thời, mở rộng và tăng cường chiến tranh phá hoại miền Bắc hòng ngăn chặn nguồn chi viện từ miền Bắc vào miền Nam. Thế nhưng, trải qua hai năm đó, quân và dân hai miền Nam, Bắc Việt Nam từng bước đánh bại những bước leo thang chiến tranh của Mỹ, giữ vững thế chủ động chiến lược, khiến cho Mỹ và chính quyền Sài Gòn rơi vào thế bị động, nội bộ mâu thuẫn. Phong trào phản đối chiến tranh xâm lược Việt Nam ngày càng dâng cao mạnh mẽ khắp nơi trên thế giới và ngay tại nước Mỹ.

Trước những biến chuyển mới của cục diện chiến tranh, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 13 (khóa III) (tháng 01-1967) quyết định triệt để tận dụng thời cơ, mở mặt trận ngoại giao, kết hợp chặt chẽ với đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị nhằm đưa cuộc kháng chiến lên bước phát triển mới. Hội nghị xác định “đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị ở miền Nam là nhân tố chủ yếu quyết định thắng lợi trên chiến trường, làm cơ sở cho thắng lợi trên mặt trận ngoại giao”1. Tuy nhiên, Hội nghị cũng nhấn mạnh: “đấu tranh ngoại giao không chỉ đơn thuần phản ánh cuộc đấu tranh trên chiến trường, mà trong tình hình quốc tế hiện nay, với tính chất cuộc chiến tranh giữa ta và địch, đấu tranh ngoại giao giữ một vai trò quan trọng, tích cực và chủ động”2. Như vậy, đến đầu năm 1967, trong tính toán chiến lược của Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, đã hình thành chủ trương “vừa đánh, vừa đàm”, “vừa đàm, vừa đánh”. Đó là một sáng tạo trong nghệ thuật điều hành chiến tranh của phía Việt Nam.

Quang cảnh Hội nghị Pa-ri về chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam (ảnh tư liệu)
 

Đặt trong bối cảnh thuộc về hoặc liên quan tới cuộc chiến lúc đó, chủ trương “vừa đánh, vừa đàm” là một vấn đề mang tính nghệ thuật tổng hợp hết sức phức tạp, đòi hỏi phải biết kết hợp nhuần nhuyễn giữa đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị và ngoại giao, nhằm tạo nên sức mạnh to lớn, đủ sức đương đầu và chiến thắng kẻ thù có sức mạnh kinh tế, quân sự lớn hơn gấp nhiều lần. Do vậy, muốn thực hiện thành công sách lược này, một mặt, Đảng ta luôn giữ vững nguyên tắc độc lập, tự chủ; mặt khác, chủ động, linh hoạt, mềm dẻo trong sách lược bằng việc hé mở khả năng phía Việt Nam sẽ đi vào đàm phán trực tiếp nếu Mỹ chấm dứt ném bom không điều kiện miền Bắc. Đồng thời, Trung ương cũng chủ trương tích cực đẩy mạnh các hoạt động đối ngoại làm cho nhân dân tiến bộ trên thế giới, bạn bè quốc tế, các nước XHCN anh em, nhất là Liên Xô, Trung Quốc hiểu, đi đến ủng hộ sách lược “vừa đánh, vừa đàm” của Việt Nam. Hiện thực hóa chủ trương đó, về quân sự, Trung ương Đảng xác định, điều cần thiết đối với cách mạng miền Nam lúc này là phải tổ chức nhiều hoạt động, nhiều cuộc tiến công quy mô chiến lược đủ sức làm xoay chuyển cục diện chiến trường, giáng mạnh vào ý chí xâm lược của Mỹ, kéo Mỹ xuống thang chiến tranh, tạo điều kiện để đấu tranh ngoại giao thực hiện hai mục tiêu chủ yếu: buộc Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc và rút quân khỏi miền Nam3. Kế hoạch chiến lược Đông – Xuân 1966 - 1967 khởi thảo với điểm cốt lõi: giành thắng lợi quyết định không phải “bằng cách đánh thông thường mà phải tìm cách đánh khác để đập tan ý chí tiếp tục chiến tranh của Mỹ, làm cho Mỹ hiểu rằng không thể thắng được dân tộc Việt Nam bằng vũ khí và bom đạn”4. Sau nhiều lần bàn bạc, tính toán, cân nhắc, phương thức tiến công mới: táo bạo, bất ngờ và đồng loạt đánh mạnh vào các đô thị trên toàn miền Nam được lựa chọn. Tháng 01-1968, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 14 (khóa III) quyết định thực hiện Tổng công kích - Tổng khởi nghĩa. Đêm 29, rạng ngày 30 và đêm 30, rạng ngày 31-01-1968, đòn tiến công mãnh liệt, bất ngờ vào khắp hệ thống đô thị miền Nam đã làm rung chuyển nước Mỹ. Thắng lợi của Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân (1968) buộc Tổng thống Mỹ Giôn-xơn phải công khai tuyên bố ba điểm: Đơn phương ngừng đánh phá miền Bắc (từ vĩ tuyến 20 trở ra); nhận đàm phán với ta tại Hội nghị Pa-ri; không ra tranh cử nhiệm kỳ hai...

Buộc phải xuống thang chiến tranh, chấp nhận thương lượng đàm phán để tìm lối thoát khỏi cuộc chiến trong danh dự, nhưng với bản chất ngoan cố, hiếu chiến, phía Mỹ vẫn tìm cách để thực hiện đàm phán trên “thế mạnh”. Một mặt, trên chiến trường, Mỹ và Quân đội Sài Gòn dồn sức mở các cuộc hành quân quy mô lớn hòng đánh bật Quân giải phóng ra khỏi đô thị, vùng ven, vùng nông thôn - đồng bằng; xóa bỏ cơ sở chính trị của cách mạng miền Nam. Mặt khác, ở bàn Hội nghị, phía Mỹ đặt điều kiện cho việc ngừng ném bom hoàn toàn miền Bắc Việt Nam: phải công nhận đại diện chính quyền Sài Gòn, chấm dứt đưa người, vũ khí từ miền Bắc vào miền Nam, ngừng các cuộc tiến công vào đô thị trên toàn Miền. Với sự nhạy bén, sắc sảo, Đảng ta nhận định “Chúng ta chỉ có thể giành được trên bàn hội nghị những cái mà chúng ta đã giành được trên chiến trường”5. Trên tinh thần đó, mùa hè năm 1968, Bộ Chính trị quyết định bồi tiếp đòn tiến công mới, giáng mạnh vào ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, gây cho Mỹ những tổn thất nặng nề về sinh lực và phương tiện chiến tranh, làm cho Mỹ “thất bại trên chiến trường, thất bại ở các thành thị lớn và thất bại ở ngay nước Mỹ”6, thúc đẩy tiến trình đàm phán tại Hội nghị Pa-ri. Đầu năm 1969, Hội nghị Pa-ri bước vào giai đoạn hai - giai đoạn đàm phán bốn bên. Tuy nhiên, phía Mỹ vẫn muốn đàm phán trên thế mạnh, nên họ vẫn đưa ra những điều kiện mà phía Việt Nam không thể chấp nhận, gây nên sự bế tắc trên bàn đàm phán trong suốt những năm 1968 - 1970. Nhận thức rõ âm mưu của Mỹ, cuối năm 1970, Bộ Chính trị hạ quyết tâm “phải đánh cho quân Mỹ thua đau hơn nữa, đánh cho ngụy quân, ngụy quyền phải sụp đổ”7. Biến quyết tâm thành hành động, năm 1971 - 1972, ta chủ động mở các đợt hoạt động quân sự mạnh, đánh bại các cuộc hành quân, càn quét của Mỹ và Quân đội Sài Gòn. Điển hình là cuộc tiến công chiến lược năm 1972 với ba chiến dịch tiến công hiệp đồng binh chủng trên ba hướng: Quảng Trị, Bắc Tây Nguyên và Đông Nam Bộ, hai chiến dịch tổng hợp ở Bắc Bình Định và đồng bằng Nam Bộ đã tác động trực tiếp đến cục diện cuộc đấu tranh ngoại giao đang ở thế giằng co. Tin tức thắng lợi từ chiến trường liên tục dội đến bàn đàm phán đã tạo ra “khả năng kéo Mỹ xuống nữa để thắng một bước căn bản tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn cho cuộc cách mạng miền Nam”8, “làm áp lực mạnh hơn buộc chính quyền Mỹ phải từ bỏ xâm lược, chấm dứt chiến tranh”9. Cùng với đó, Đảng ta tích cực tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của Liên Xô, Trung Quốc và dư luận tiến bộ, yêu chuộng hòa bình trên thế giới.

Đến trước cuộc tiến công Xuân - Hè 1972, cuộc đấu tranh ở Hội nghị Pa-ri giữa Việt Nam và Mỹ tiếp tục diễn ra căng thẳng, quyết liệt, nhưng không có tiến triển. Trước những bước chuyển biến chậm trên bàn đàm phán, trong khi các cuộc phiêu lưu quân sự trên chiến trường Đông Dương có nguy cơ thất bại hoàn toàn và dư luận Mỹ đang lên án mạnh mẽ chiến tranh xâm lược Việt Nam, Ních-xơn quyết định thực hiện chiến dịch ngoại giao nước lớn với một số nước XHCN hòng gây sức ép lên phía Việt Nam, giúp ông ta (Ních-xơn) chấm dứt cuộc chiến tranh ở Đông Dương thông qua thương lượng về một giải pháp tại Pa-ri10. Tiếp đó, với thái độ tráo trở, lật lọng, ngày 21-3-1972, Ních-xơn đơn phương “ngừng không thời hạn” Hội nghị Pa-ri, cáo buộc hai Đoàn Việt Nam gây bế tắc, không thương lượng nghiêm chỉnh và tuyên bố ném bom miền Bắc trở lại với quy mô chưa từng có (4-1972). Dự đoán đúng diễn biến của tình hình, Trung ương Đảng chủ trương duy trì Hội nghị Pa-ri “làm diễn đàn tuyên truyền để tranh thủ dư luận quốc tế và kết hợp với chiến trường đấu tranh với chúng về mặt ngoại giao”11. Thấu triệt quan điểm này, tại Pa-ri, Đoàn Ngoại giao Việt Nam đã chủ động, tích cực đấu tranh, đòi họp lại Hội nghị như thường lệ. Cuối cùng, phía Mỹ phải đồng ý nối lại cuộc đàm phán.

Từ giữa năm 1972, ở nước Mỹ, cuộc chạy đua vào Nhà trắng đang bước vào giai đoạn quyết định, trong đó vấn đề tìm giải pháp chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam được đông đảo cử tri Mỹ quan tâm. Ních-xơn buộc phải chọn giải pháp thúc đẩy thương lượng để vượt lên trong tranh cử. Song, ông ta vẫn cố đi tìm “thế mạnh” trên bàn Hội nghị bằng những cố gắng cuối cùng buộc Việt Nam phải nhân nhượng thêm. Từ tối ngày 18 đến ngày 30-12-1972, Mỹ mở chiến dịch tiến công chiến lược đường không “Lai-nơ-bếch-cơ-II”, dùng máy bay B.52 đánh phá quyết liệt Hà Nội, Hải Phòng và một số mục tiêu quan trọng khác. Tuy nhiên, nỗ lực cuối cùng về quân sự này của Mỹ đã bị quân - dân miền Bắc đập tan. Không quân Mỹ phải chịu tổn thất nặng nề nhất trong lịch sử của nó. Thất bại đó làm tan vỡ cố gắng cuối cùng của chính quyền Mỹ về sử dụng sức mạnh quân sự để đạt mục tiêu “đàm phán trên thế mạnh”. Ngày 29-12-1972, Ních-xơn buộc phải ra lệnh chấm dứt cuộc tập kích chiến lược đường không, mở đường cho việc nối lại đàm phán. Trong tư thế của người chiến thắng, ngày 08-01-1973, phái đoàn ngoại giao Việt Nam trở lại Pa-ri. Ngày 13-01-1973, văn bản cuối cùng đã được thỏa thuận. Đúng 12 giờ 30 phút (giờ Pa-ri) ngày 23-01-1973, Cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ cùng Cố vấn Kít-xinh-giơ ký tắt vào văn bản Hiệp định. Ngày 27-01-1973, diễn ra Lễ ký kết chính thức Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam, chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam của Mỹ - cuộc chiến tranh dài ngày nhất với những thất bại nặng nề mà người Mỹ hằng tìm cách lý giải.

Hiệp định Pa-ri được ký kết là thành quả rực rỡ của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; kết quả của cuộc đấu tranh, đấu trí kiên quyết, sáng tạo trên mặt trận quân sự, chính trị và ngoại giao. Bằng trí tuệ, bản lĩnh Việt Nam, Đảng ta đã vận dụng linh hoạt, sáng tạo nghệ thuật “vừa đánh, vừa đàm” và có những quyết sách đúng đắn, khôn khéo, từng bước đưa cuộc kháng chiến phát triển theo hướng có lợi nhất. Thắng lợi trên bàn đàm phán Pa-ri là kết quả tổng hợp của nhân tố quân sự - chính trị - ngoại giao; trong đó, cuộc đấu tranh kết hợp “vừa đánh, vừa đàm”, phát huy thắng lợi trên chiến trường với đấu tranh ngoại giao có vai trò quan trọng. Đó là thắng lợi thuyết phục không chỉ trước một đối thủ hùng mạnh, mà còn là sự thể hiện cao nhất của nghệ thuật dẫn dắt  – “vừa đánh, vừa đàm” – nghệ thuật quân sự của một dân tộc biết khởi đầu và kết thúc cuộc chiến theo truyền thống quân sự Việt Nam.

Đại tá, PGS, TS. HỒ KHANG

Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam

                  

1 - ĐCSVN - Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 28, Nxb CTQG, H. 2003, tr. 174.

2 - Sđd, tr. 174.

3 - ĐCSVN - Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 28, Nxb CTQG, H. 2003, tr. 125.

4 - Lịch sử quân sự Việt Nam, Tập 11, Nxb CTQG, H. 2005, tr. 205 - 207.

5 - Sđd, tr. 170.

6 - Nghị quyết Bộ Chính trị, tháng 8-1968.

7 - ĐCSVN - Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 32, Nxb CTQG, H. 2004, tr. 118.

8 - Sđd, tr. 366.

9 - ĐCSVN - Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 32, Nxb CTQG, H. 2004, tr.  366 - 367.

10 - Xem thêm Pierre Asselin, Nền hòa bình mong manh – Washington, Hà Nội và tiến trình Hiệp định Paris, Nxb CTQG, H. 2005, tr. 55 - 56.

11 - ĐCSVN - Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 33, Nxb CTQG, H. 2004, tr. 252.

 
Ý kiến bạn đọc (0)

Thư của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng gửi cán bộ, chiến sĩ Dân quân tự vệ cả nước
Tôi nhiệt liệt biểu dương, khen ngợi những thành tích và sự tiến bộ, trưởng thành của Dân quân tự vệ trong 90 năm qua. Mong rằng, trong giai đoạn cách mạng mới, các đồng chí tiếp tục phát huy thành tích đã đạt được và truyền thống vẻ vang của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng; đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao;...