Thứ Năm, 24/04/2025, 11:02 (GMT+7)
Sự kiện lịch sử Những ngày kỷ niệm lớn
Cùng nằm trên bán đảo Đông Dương, cùng uống chung dòng nước ngọt ngào của sông Mê Kông, cùng tựa lưng vào dãy núi Trường Sơn hùng vĩ, có những nét lịch sử - văn hóa tương đồng, Việt Nam và Cam-pu-chia sớm có mối quan hệ mật thiết, máu thịt. Hình thành trong những tháng, năm gian nan dựng nước và giữ nước, trải qua những thăng trầm lịch sử, như “lửa đã thử vàng”, quan hệ Việt Nam – Cam-pu-chia là mối quan hệ chiến lược, gắn bó bền chặt một cách tự nhiên.
1. Do vị trí địa lý đặc thù, cùng là mục tiêu xâm lược, nhòm ngó của nhiều kẻ thù từ bên ngoài; ủng hộ, giúp đỡ lẫn nhau vừa là nghĩa vụ, vừa là trách nhiệm, lương tâm của hai dân tộc Việt Nam – Cam-pu-chia. Trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, trong điều kiện Đông Dương là một chiến trường, nhân dân hai nước Việt Nam, Cam-pu-chia đã sát cánh cùng nhau chung một chiến hào để bảo vệ nền độc lập vô giá. Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, Chính phủ Việt Nam đặc biệt chú trọng đoàn kết với nhân dân Cam-pu-chia. Trên quan điểm “giúp bạn là tự giúp mình”, Đảng Lao động Việt Nam chủ trương củng cố liên minh chiến đấu với nhân dân Cam-pu-chia để kháng chiến giành độc lập và thống nhất thật sự1, đứng trên lập trường lợi ích chung mà hợp tác lâu dài trong kháng chiến và sau kháng chiến2.
Chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 và việc ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ không chỉ mở ra vận hội mới đối với cả hai dân tộc Việt Nam – Cam-pu-chia, mà còn là dấu mốc quan trọng trong quá trình củng cố, phát triển quan hệ Việt Nam – Cam-pu-chia. Thực hiện chính sách hòa bình, mở rộng quan hệ đối ngoại với các nước láng giềng, năm 1960, Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa tuyên bố: “Chúng ta hoan nghênh và ủng hộ đường lối hòa bình trung lập của Cam-pu-chia và sẽ tăng cường hơn nữa quan hệ hữu nghị với Vương quốc Cam-pu-chia”3. Trên thực tế, Chính phủ và nhân dân Việt Nam luôn ủng hộ sự lựa chọn con đường trung lập và cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập của Vương Quốc Cam-pu-chia do Quốc vương Nô-rô-đôm Xi-ha-núc đứng đầu.
Đáp lại thiện chí và tình cảm của nhân dân Việt Nam, tháng 3-1964, Chính phủ Cam-pu-chia tuyên bố cắt đứt các quan hệ ngoại giao với Chính quyền Sài Gòn. Tiếp đó, tháng 6-1967, Chính phủ Cam-pu-chia nâng cấp đại diện thường trực Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa thành cơ quan Đại sứ quán. Đây là sự ủng hộ có ý nghĩa to lớn, quan trọng của Cam-pu-chia đối với Nhà nước và nhân dân Việt Nam đang gồng mình chiến đấu với đế quốc Mỹ. Từ năm 1970, cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược của nhân dân Cam-pu-chia phát triển nhanh chóng, lực lượng vũ trang lớn mạnh, vùng giải phóng không ngừng mở rộng cùng hòa chung vào nhịp phát triển sôi động, mạnh mẽ của cuộc đấu tranh giành độc lập trên bán đảo Đông Dương. Trước tình hình đó, Việt Nam ủng hộ, tiếp sức cho Đảng Nhân dân Cam-pu-chia đấu tranh chống đế quốc Mỹ, chống chính quyền Lon-non, giành vị trí hợp pháp. Sự cố gắng nỗ lực và hy sinh xương máu của nhân dân Đông Dương đã được đền đáp xứng đáng: mùa Xuân 1975, Đông Dương được hoàn toàn giải phóng. Đây là “thắng lợi của tình đoàn kết chiến đấu không gì lay chuyển nổi của nhân dân ba nước Việt Nam, Lào và Cam-pu-chia, của mối quan hệ đặc biệt đã có từ lâu trong lịch sử và được thử thách trong ngọn lửa cách mạng”4.
2. Bước ra khỏi khói lửa chiến tranh, các dân tộc trên bán đảo Đông Dương có cùng mục tiêu tiến lên trên con đường xây dựng đất nước, xây dựng Đông Dương hòa bình, tiến bộ và thịnh vượng. Trong bối cảnh lịch sử mới, Đảng, Nhà nước Việt Nam khẳng định quyết tâm “làm cho ba nước Đông Dương vốn đã gắn bó với nhau trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc sẽ mãi mãi gắn bó với nhau trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, vì độc lập và phồn vinh mỗi nước”5. Tuy nhiên, khi cơ hội và khả năng phát triển đang mở ra trước các dân tộc Đông Dương, nhân dân Cam-pu-chia lại phải hứng chịu những thử thách khắc nghiệt: Tập đoàn Pôn Pôt – Iêng-Xary dựng lên một chế độ diệt chủng kỳ quái, phi nhân tính có một không hai trong lịch sử, lạnh lùng biến ốc đảo thanh bình với nền văn minh Ăng-ko rực rỡ thành đống đổ nát, hoang tàn, u ám, chết chóc. Dưới bàn tay tàn bạo của tập đoàn Pôn Pôt – Iêng-Xary, dấu ấn của một đất nước hiền hòa, thân thiện đã hoàn toàn biến mất. Đất nước Chùa Tháp xinh xắn, hiền hòa bị biến thành một trại khổ sai khổng lồ, biệt lập, đầy rẫy những hố chôn người với những khuôn mặt câm lặng, hóa đá vì sợ hãi.
Không chỉ hành xử man rợ với đồng bào mình, dân tộc mình, tập đoàn Pôn Pôt – Iêng-Xary còn hết sức hiếu chiến. Với nước láng giềng Việt Nam đã từng "sớm tối có nhau", Chính quyền Pôn Pôt tiến hành các cuộc xâm lấn, đánh chiếm biên giới trong thời gian dài với cường độ, tần suất ngày càng gia tăng. Hàng loạt các cuộc tàn sát, thảm sát dọc biên giới Việt Nam – Cam-pu-chia do tập đoàn Pôn Pôt gây nên không chỉ để lại một vết đen trong quá khứ đau thương của nhân dân Cam-pu-chia, mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến hòa bình, ổn định trên toàn cõi Đông Dương cũng như trong khu vực.
Dù mọi hành động của Chính quyền Pôn Pôt đã vượt quá giới hạn, song vì mục tiêu gìn giữ hòa bình, gìn giữ quan hệ láng giềng hòa hiếu, gìn giữ tình hữu nghị Việt Nam – Cam-pu-chia, Đảng, Nhà nước Việt Nam không dưới một lần đề nghị phía Cam-pu-chia thực hiện nguyên tắc “bình đẳng, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, tôn trọng lợi ích chính đáng của nhau”6, đàm phán, giải quyết bằng con đường thương lượng hòa bình. Đảng, Nhà nước Việt Nam mong muốn “hai bên gặp nhau càng sớm càng tốt ở bất cứ cấp nào để cùng nhau trên tinh thần hữu nghị anh em giải quyết vấn đề biên giới giữa hai nước”7, song mọi nỗ lực của Việt Nam đều rơi vào vô vọng. Chính quyền Pôn Pôt liên tục khước từ và không ngừng mở rộng phạm vi đánh phá, tiến công các điểm dân cư dọc biên giới hai nước. Ngày 31-12-1977, Chính quyền Pôn Pôt chính thức cắt quan hệ ngoại giao với Việt Nam, rút Đại sứ quán Cam-pu-chia ở Hà Nội và yêu cầu tất cả cán bộ ngoại giao của Việt Nam ở Phnôm-Pênh về nước.
Cùng lúc, ở Cam-pu-chia, trước sự áp bức tàn bạo của Khơ-me Đỏ, nhân dân Cam-pu-chia đã không thể ngồi im chờ chết, nổi dậy hành động quyết liệt, bạo lực giáng trả bằng bạo lực. Các cuộc phản kháng nổ ra ở nhiều vùng miền và trước đòi hỏi cấp bách của tình thế, tháng 12-1978, Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Cam-pu-chia ra đời. Đại hội thành lập Mặt trận thông qua Cương lĩnh chính trị 11 điểm, ra lời kêu gọi nhân dân Cam-pu-chia đoàn kết đấu tranh đánh đổ chế độ diệt chủng Pôn Pôt. Ngày 26-12-1978, Bộ Chỉ huy Quân đội cách mạng, Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Cam-pu-chia quyết định phát động phong trào nổi dậy của quần chúng, đồng thời kêu gọi nhân dân Việt Nam giúp đỡ tiêu diệt chế độ diệt chủng. Đáp lời kêu gọi của Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Cam-pu-chia – lời kêu gọi cứu giúp của một dân tộc, quân tình nguyện Việt Nam đã phối hợp chặt chẽ với các lực lượng vũ trang của Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Cam-pu-chia tiến hành các chiến dịch quân sự, đánh tan lực lượng của chính quyền Pôn Pôt. Ngày 07-01-1979, Thủ đô Phnôm Pênh được giải phóng, nhân dân Cam-pu-chia thoát khỏi họa diệt chủng, đất nước Cam-pu-chia được sinh ra lần thứ hai. Bằng thắng lợi của mình, “nhân dân Cam-pu-chia góp phần thủ tiêu họa xâm lăng từ đất Cam-pu-chia; thiết thực góp phần giúp đỡ nhân dân Việt Nam trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc”8.
3. Sự kiện lịch sử 07-01-1979 có ý nghĩa đặc biệt to lớn đối với nhân dân và vận mệnh đất nước Cam-pu-chia. Cuộc “cách mạng làm lại” đã chính thức khép lại một trang bi thương đầy máu và nước mắt trong lịch sử dân tộc Cam-pu-chia. Thắng lợi ngày 07-01-1979 một lần nữa thể hiện sự gắn bó, thủy chung nghĩa tình giữa hai dân tộc “tối lửa tắt đèn” có nhau, mở ra thời kỳ mới của quan hệ đoàn kết Việt Nam – Cam-pu-chia, thời kỳ của tình hữu nghị và hợp tác toàn diện. Thắng lợi ấy khẳng định một tất yếu khách quan: củng cố, tăng cường quan hệ đặc biệt Việt Nam – Cam-pu-chia là đảm bảo chắc chắn cho sự tồn tại của hai nước, là quy luật phát triển của hai dân tộc. Đó cũng là nhân tố đảm bảo cho việc giữ gìn độc lập của Việt Nam và Cam-pu-chia, đồng thời, cũng là nhân tố đảm bảo hòa bình, ổn định ở khu vực Đông Nam Á.
Sau khi tập đoàn diệt chủng Pôn Pôt bị đập tan, Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Cam-pu-chia thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Cam-pu-chia, quan hệ Việt Nam – Cam-pu-chia bước vào giai đoạn phát triển mới. Ngày 18-02-1979, Hiệp ước hòa bình, hữu nghị và hợp tác giữa Việt Nam và Cam-pu-chia được ký kết với tinh thần cốt yếu: “Cam kết làm hết sức mình để bảo vệ và phát triển không ngừng truyền thống đoàn kết chiến đấu, quan hệ hữu nghị hợp tác anh em Việt Nam – Cam-pu-chia”9.
Mặc dù thất bại, nhưng lực lượng tàn quân Pôn Pôt vẫn không chịu từ bỏ ảo mộng quyền lực, tiếp tục tiến hành chiến tranh du kích. Thực hiện cam kết “hết lòng và ủng hộ lẫn nhau về mọi mặt và bằng mọi hình thức cần thiết nhằm tăng cường khả năng bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và công việc lao động hòa bình của nhân dân mỗi nước”10, sau khi giúp Cam-pu-chia giải thoát khỏi họa diệt vong, nhân dân Việt Nam tiếp tục “chung lưng đấu cật” với nhân dân Cam-pu-chia trong những thử thách mới, gửi quân tình nguyện và chuyên gia dân sự giúp bảo vệ thành quả cách mạng, xây dựng đất nước. Những cuộc tiến công dồn dập của quân dân Cam-pu-chia phối hợp với quân tình nguyện Việt Nam đã nhanh chóng đẩy tàn quân Pôn Pôt vào thế khó khăn, tan rã.
Vượt qua những thử thách, gian lao, trằn mình nếm mật, nằm gai cùng với cán bộ, chiến sĩ nhân dân Cam-pu-chia, đại đa số chuyên gia Việt Nam đã sống mẫu mực, chiến đấu dũng cảm, không quản ngại hy sinh, gian khó, chia ngọt sẻ bùi với đất nước Cam-pu-chia, có mặt tại các vùng tàn quân Pôn Pôt hoạt động, giúp cán bộ Cam-pu-chia nắm tình hình, kịp thời tư vấn, đề xuất các ý kiến phục vụ thiết thực việc xây dựng các tổ chức quần chúng, mạng lưới cơ sở của Đảng Nhân dân cách mạng Cam-pu-chia, xây dựng lực lượng an ninh – quốc phòng và ổn định sản xuất. Với sự nỗ lực cao độ, với sự giúp đỡ của Việt Nam và cộng đồng quốc tế, từ tro tàn, đổ nát, từ những “cánh đồng chết”, nhân dân Cam-pu-chia đã nhanh chóng xây dựng lại đất nước. Cũng như những tháng, năm trước đây, trong công cuộc hồi sinh, trong từng giờ, từng ngày đất nước Cam-pu-chia thay da, đổi thịt, bên cạnh nhân dân Cam-pu-chia luôn có nhân dân Việt Nam kề vai, sát cánh, “miếng cơm sẻ nửa, hạt muối cắn đôi”. Lúc này, dù nhân dân Việt Nam đang hết sức khó khăn, nhiều nhu cầu tối thiểu như lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng thiết yếu thiếu thốn trầm trọng, song những chuyến hàng viện trợ nặng ân tình từ Việt Nam vẫn ngày đêm nối đuôi nhau đến với nhân dân Cam-pu-chia, hy vọng san đỡ những khó khăn, sẻ chia những nhọc nhằn, bù trừ phần nào những mất mát.
4. Sự kiện 07-01-1979 đã lùi xa vào lịch sử và xung quanh sự kiện này đã có và hiện có những quan điểm, những ý kiến đánh giá khác nhau, thậm chí trái ngược nhau. Thế giới đang đổi thay nhanh chóng, lịch sử đầy ắp các sự kiện, các thăng trầm khó đoán định trước, tuy nhiên, lịch sử luôn có điểm khởi nguồn và hệ quả; đồng thời, hết sức khách quan và công bằng. Trong dòng chảy liên tục của lịch sử, hiện thực thoát khỏi lưỡi hái tử thần, hồi sinh, phát triển của dân tộc, của đất nước Cam-pu-chia có điểm bắt đầu và là kết quả của những giá trị đích thực, chân chính không dễ gì phủ nhận – kết quả của tình đoàn kết gắn bó, giúp đỡ lẫn nhau Việt Nam – Cam-pu-chia. Chủ tịch Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Cam-pu-chia Hêng Xom-rin từng phát biểu: “Chúng tôi đánh giá cao thái độ trung thành, hết tình, hết nghĩa của Việt Nam, luôn lấy tình hữu nghị lâu dài giữa nhân dân hai nước làm trọng”11. Thủ tướng Chính phủ Hoàng gia Cam-pu-chia Xăm-đéc Hun Sen khẳng định: “Nếu không có ngày 07-01-1979, nhân dân Cam-pu-chia chúng tôi cũng không thể có được những gì trong ngày hôm nay. Đây là chân lý lịch sử không một thế lực phản động nào có thể phủ nhận”12.
35 năm đã trôi qua, nhìn lại sự kiện lịch sử 07-01-1979 để khẳng định những chân giá trị, củng cố niềm tin và có thêm sức mạnh xây dựng hiện tại – xây dựng, phát triển quan hệ Việt Nam – Cam-pu-chia ổn định, lâu dài trên cơ sở những truyền thống tốt đẹp và trên nguyên tắc mới, phù hợp với lợi ích chính đáng của nhân dân mỗi nước cũng như sự ổn định, hòa bình trong khu vực, trên thế giới. Trân trọng quá khứ, trân trọng lịch sử, nhân dân hai nước Việt Nam, Cam-pu-chia có đầy đủ những điều kiện để cùng nhau đi tiếp và đi tới một tương lai tốt đẹp, bền vững.
PGS, TS. HỒ KHANG
Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam ________________
1 - ĐCSVN - Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 12, Nxb CTQG, H. 2001, tr. 148.
2 - Sđd, tr. 441 - 442.
3 - Sđd, Tập 21, H. 2001, tr. 940.
4 - ĐCSVN - Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần IV, Nxb. Sự thật, H. 1977, tr. 11.
5 - Sđd, tr. 76 - 77.
6 - Sđd, tr. 113.
7 - Dẫn theo Lưu Văn Lợi: Năm mươi năm ngoại giao Việt Nam, Tập II (1975 - 1995), Nxb Công an nhân dân, H. 1998, tr. 110.
8 - Trường Chinh: “Vấn đề Cam-pu-chia”, Báo Quân đội nhân dân, tháng 12-1979.
9 - Học viện Quan hệ quốc tế: Thắng lợi có tính thời đại và cuộc đấu tranh trên mặt trận đối ngoại của nhân dân ta, Nxb Sự thật, H. 1985, tr. 106.
10 - Kỷ nguyên mới của đoàn kết hợp tác Việt Nam – Cam-pu-chia, Nxb Sự thật, H. 1979, tr. 43.
11 - Kỷ nguyên mới của đoàn kết hợp tác Việt Nam – Cam-pu-chia, Nxb Sự thật, H. 1979, tr. 12.
12 - Diễn văn của Xăm-đéc Hun Sen, Thủ tướng Chính phủ Hoàng gia Cam-pu-chia tại buổi chiêu đãi của Thủ tướng Phan Văn Khải (10-10-2005), http://www.vietnamembassy.
cam-pu-chia,35 năm
Thư cảm ơn của Quân ủy Trung ương - Bộ Quốc phòng nhân tổ chức các hoạt động kỷ niệm 90 năm Ngày truyền thống Dân quân tự vệ 10/04/2025
Thư của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng gửi cán bộ, chiến sĩ Dân quân tự vệ cả nước 28/03/2025
Tỉnh Quảng Ninh phát huy vai trò lực lượng dân quân tự vệ trong thực hiện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng 27/03/2025
Xứng đáng là cơ quan đầu ngành toàn quân về tham mưu, chỉ đạo công tác dân quân tự vệ 26/03/2025
Xây dựng lực lượng dân quân tự vệ “vững mạnh, rộng khắp”, ngang tầm nhiệm vụ 26/03/2025
Họp báo giới thiệu Hội thảo khoa học “Chiến thắng Tây Nguyên 1975 và nửa thế kỷ xây dựng, phát triển Đắk Lắk” 27/02/2025
Đại tướng Phan Văn Giang dự Lễ kỷ niệm 70 năm Ngày truyền thống Không quân nhân dân Việt Nam 27/02/2025
Thượng tướng Trịnh Văn Quyết thăm và chúc mừng Học viện Quân y 27/02/2025
Gặp mặt kỷ niệm 70 năm Ngày Thầy thuốc Việt Nam 26/02/2025
Thư của Đại tướng Phan Văn Giang chúc mừng cán bộ, nhân viên, học viên, chiến sĩ Quân y toàn quân 25/02/2025
Xây dựng lực lượng dân quân tự vệ “vững mạnh, rộng khắp”, ngang tầm nhiệm vụ
Xứng đáng là cơ quan đầu ngành toàn quân về tham mưu, chỉ đạo công tác dân quân tự vệ
Tỉnh Quảng Ninh phát huy vai trò lực lượng dân quân tự vệ trong thực hiện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng
Thư của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng gửi cán bộ, chiến sĩ Dân quân tự vệ cả nước
Thư cảm ơn của Quân ủy Trung ương - Bộ Quốc phòng nhân tổ chức các hoạt động kỷ niệm 90 năm Ngày truyền thống Dân quân tự vệ