QPTD -Thứ Hai, 07/03/2011, 15:06 (GMT+7)
Xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch vững mạnh gắn với thực hiện Cuộc vận động ở Đoàn B.25

altTổ chức học tập chính trị cho HSQ,CS ở Đoàn B.25 (ảnh: Đoàn B.25)

 Quá trình tổ chức thực hiện  Cuộc vận động (CVĐ) “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” ở Đoàn B.25 (Binh đoàn Hương Giang) đã được chú trọng gắn kết chặt chẽ với xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch vững mạnh (TSVM). Điều đó đã góp phần quan trọng trong việc nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên (CB,ĐV), nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu của đơn vị.

 

Nhận thức đầy đủ về ý nghĩa, tầm quan trọng của CVĐ đối với việc xây dựng tổ chức đảng và giáo dục, rèn luyện đội ngũ CB,ĐV, Đảng ủy Đoàn đã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện CVĐ một cách nghiêm túc, toàn diện, cả về nhận thức, tư tưởng, tổ chức, cơ chế, bảo đảm. Đặc biệt, ở bước “làm theo”, các cấp ủy đảng trong Đảng bộ Đoàn đã xác định các nội dung, giải pháp cụ thể, đồng bộ; trong đó, tập trung giải quyết những khâu yếu, mặt yếu trong từng tổ chức đảng và mỗi CB,ĐV, nhất là tổ chức cơ sở đảng và cán bộ chủ trì, cấp ủy viên. Nhằm nâng cao nhận thức, trách nhiệm đối với CVĐ và công tác xây dựng đảng, Thường vụ Đảng ủy Đoàn đã chỉ đạo cấp ủy các cấp tổ chức quán triệt nghiêm túc nguyên tắc, cơ chế lãnh đạo của Đảng, các quy định của trên về công tác xây dựng đảng, nhất là Nghị quyết Trung ương 6, 7 (khóa X); Quy định 105-QĐ/TW của Bộ Chính trị, Quy định 91-QĐ/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng, Nghị quyết số 147-NQ/ĐUQSTW của Đảng uỷ Quân sự Trung ương và Nghị quyết số 67-NQ/ĐU của Đảng ủy Đoàn về nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ CB,ĐV,... Qua đó, làm cho mọi CB,ĐV nhận thức rõ vị trí then chốt của công tác xây dựng đảng, nắm vững nguyên tắc lãnh đạo của Đảng đối với quân đội và vai trò hạt nhân chính trị của tổ chức cơ sở đảng ở từng đơn vị; đồng thời, giúp từng tổ chức đảng và mỗi đảng viên thấy rõ những hạn chế, bất cập hiện nay của mình để có biện pháp khắc phục kịp thời. Công tác bồi dưỡng, giáo dục, rèn luyện CB,ĐV được tăng cường, tập trung vào việc nâng cao năng lực thực tiễn, nhất là năng lực cụ thể hóa nghị quyết cấp mình; chú trọng bồi dưỡng tác phong, lề lối làm việc, quy trình lãnh đạo và hành chính đảng,… đối với cấp ủy viên.

Trong quá trình thực hiện CVĐ, Thường vụ, Đảng uỷ Đoàn đã tổ chức nhiều đợt sinh hoạt chính trị quan trọng, tiêu biểu là việc quán triệt và tổ chức thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (khóa X); tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khóa VIII) “Về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước”; tổ chức đại hội đảng các cấp trong toàn Đảng bộ,... Những sự kiện này có ý nghĩa thiết thực đối với việc tổ chức thực hiện CVĐ và yêu cầu xây dựng Đảng bộ TSVM. Trong tổ chức thực hiện CVĐ, các cấp ủy trong Đảng bộ Đoàn đã kết hợp chặt chẽ những nội dung, yêu cầu mà trên đã xác định, nhất là những yêu cầu nhằm xây dựng Đảng bộ TSVM, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Thông qua những việc làm này, các cấp uỷ đảng đã kiểm nghiệm và bổ sung những chủ trương, giải pháp mới phù hợp với tình hình và yêu cầu thực tiễn của công tác xây dựng đảng, bảo đảm cho CVĐ luôn đi vào thực tiễn hoạt động của mỗi cá nhân và tập thể.

Thông qua thực tiễn công tác xây dựng đảng trong thực hiện CVĐ, Đảng bộ Đoàn nói chung, mỗi CB,ĐV nói riêng đã có sự chuyển biến tích cực cả trong nhận thức và hành động. Cấp ủy, chỉ huy các cấp, đội ngũ CB,ĐV có nhận thức đúng đắn về sự cần thiết phải xây dựng Đảng ngang tầm nhiệm vụ, hiểu được giá trị to lớn của tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; từ đó, tích cực tu dưỡng, rèn luyện theo tấm gương đạo đức của Người. Tình hình tư tưởng, đạo đức, lối sống, thái độ, trách nhiệm, phương pháp, tác phong công tác của đội ngũ CB,ĐV có chuyển biến tích cực; mối quan hệ đồng chí, đồng đội, cấp trên, cấp dưới ngày càng bền chặt. Chất lượng đảng viên, tổ chức đảng hoàn thành tốt nhiệm vụ năm sau cao hơn năm trước, luôn có từ 75 - 85% đảng viên đủ tư cách hoàn thành tốt và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trở lên; có 100% tổ chức đảng các cấp hoàn thành nhiệm vụ, không có tổ chức đảng yếu kém. Riêng năm 2010, có 84,18% đảng viên đủ tư cách hoàn tốt nhiệm vụ (tăng 12,15% so với năm 2005); 100% các đảng bộ cơ sở đều đạt TSVM; tỷ lệ cán bộ hoàn thành xuất sắc và hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ đạt 87%, không có cán bộ chưa hoàn thành chức trách, nhiệm vụ. Từ năm 2005 đến nay, toàn Đảng bộ đã kết nạp được 1.379 đảng viên, đạt 100% kế hoạch; đảng viên được kết nạp vào Đảng đều thể hiện rõ sự trong sáng về phẩm chất đạo đức, lối sống, phát huy tốt vai trò, trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ, thực sự là tấm gương cho quần chúng noi theo. Công tác kiểm tra, giám sát tổ chức đảng và đảng viên các cấp được tiến hành đúng nguyên tắc, thủ tục, bảo đảm đúng Điều lệ Đảng; đối tượng kiểm tra được Thường vụ, Đảng uỷ Đoàn tập trung vào các tổ chức đảng chưa đạt TSVM, những đảng viên là cán bộ chủ trì, đảng viên có dấu hiệu vi phạm kỷ luật,... Từ năm 2005 đến nay, toàn Đảng bộ đã kiểm tra, giám sát 142 tổ chức đảng và 2.068 lượt đảng viên, đạt 100% so với kế hoạch. Nhờ làm tốt công tác này nên tỷ lệ đảng viên vi phạm kỷ luật phải xử lý giảm xuống còn 0,13% (giảm 0,25% so với năm 2005),... Những kết quả đó đã thiết thực góp phần xây dựng Đảng bộ TSVM, Đoàn vững mạnh toàn diện, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.         

Tuy nhiên, so với mục tiêu, yêu cầu đề ra, kết quả công tác xây dựng đảng trong thực hiện CVĐ của Đảng bộ Đoàn vẫn còn những hạn chế cần phải tiếp tục khắc phục. Đó là: nhận thức của một số cấp ủy, cán bộ chủ trì còn giản đơn, chưa thấy hết ý nghĩa của CVĐ; việc xây dựng chương trình hành động của một số cấp uỷ cơ sở chưa sát với đặc điểm, nhiệm vụ của đơn vị, còn biểu hiện hình thức; một số CB,ĐV thiếu tự giác rèn luyện phẩm chất, đạo đức, lối sống, chưa gương mẫu trong học tập, công tác. Điều đó phần nào làm hạn chế đến năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng và chất lượng đội ngũ CB,ĐV.

Từ kết quả công tác xây dựng đảng gắn với thực hiện CVĐ đã đem lại cho Đảng bộ Đoàn một số bài học kinh nghiệm sau:

Một là, phải luôn quán triệt và chấp hành nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, phân công cá nhân phụ trách. Đảng ủy tập trung xây dựng và ban hành các quy chế, bao gồm: làm việc, lãnh đạo, công tác cán bộ,... bảo đảm cho hoạt động lãnh đạo của các cấp uỷ được tập trung thống nhất, toàn diện. Đồng thời, duy trì nghiêm nền nếp, chế độ sinh hoạt đảng ở các cấp; từ Đảng uỷ Đoàn đến chi bộ đều ra nghị quyết lãnh đạo nhiệm vụ năm, nghị quyết chuyên đề lãnh đạo các nhiệm vụ trọng tâm; không ngừng đổi mới phương pháp, tác phong công tác, hướng mọi hoạt động lãnh đạo về cơ sở, kịp thời chỉ đạo cơ quan, đơn vị khắc phục có hiệu quả những khâu yếu, mặt yếu... Những nhiệm vụ quan trọng, nội dung mới đều được nghiên cứu kỹ, tổ chức chỉ đạo làm điểm, rút kinh nghiệm trước, sau đó mới chỉ đạo tiến hành thống nhất trong toàn Đoàn. Cùng với đó, lãnh đạo, chỉ huy các cấp luôn có sự quan tâm, chăm lo đến đời sống vật chất và tinh thần của đơn vị, tạo điều kiện thuận lợi để cán bộ, chiến sĩ hoàn thành tốt nhiệm vụ.

Hai là, thường xuyên kiện toàn các tổ chức đảng, đội ngũ cấp ủy viên cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu. Các cấp đã chú trọng nâng cao chất lượng đội ngũ cấp uỷ viên; ưu tiên xây dựng các chi bộ đại đội chiến đấu có chi uỷ, bảo đảm nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các cấp uỷ và tổ chức đảng ngang tầm nhiệm vụ. Đồng thời, quan tâm xây dựng sự đoàn kết thống nhất cao, giải quyết tốt các mối quan hệ, nhất là quan hệ giữa lãnh đạo và chỉ huy; giữa cấp trên với cấp dưới; cơ quan và đơn vị; phát huy tốt dân chủ đi đôi với tăng cường kỷ luật trong Đảng. Trong mọi giai đoạn, việc giáo dục, rèn luyện đội ngũ đảng viên đều được kết hợp chặt chẽ với công tác quản lý cán bộ; khi đánh giá chất lượng đảng viên đều phải căn cứ vào kết quả hoàn thành nhiệm vụ, chức trách được phân công; nhận xét cán bộ phải hết sức chặt chẽ, dân chủ, khách quan, công tâm... Theo định kỳ, các đơn vị cần tổ chức tập huấn, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ theo phân cấp, lựa chọn những nội dung sát với chức trách, nhiệm vụ của từng đối tượng; chú trọng cán bộ cấp phân đội, cán bộ mới ra trường còn ít kinh nghiệm,... để nâng cao trình độ, năng lực, phương pháp, tác phong công tác.

Ba là, thường xuyên đổi mới và nâng cao chất lượng sinh hoạt đảng, tập trung đi sâu đổi mới nội dung, biện pháp lãnh đạo công tác giáo dục, rèn luyện, quản lý đội ngũ CB,ĐV; đồng thời, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, phương pháp, tác phong công tác của đội ngũ cấp uỷ, bí thư, nhất là ở chi bộ đại đội; thường xuyên duy trì nghiêm túc chế độ, nền nếp sinh hoạt đảng, nhất là chế độ sinh hoạt lãnh đạo ở các cấp. Theo đó, Đảng ủy quy định các chi bộ triển khai nghị quyết lãnh đạo từ ngày 02 đến 05 hằng tháng; nội dung sinh hoạt ngắn gọn, có trọng tâm, trọng điểm, thiết thực; khắc phục hiện tượng dàn trải, chung chung,… Nghị quyết lãnh đạo của chi bộ, đảng bộ bộ phận chỉ tập trung từ 1 đến 2 nhiệm vụ chính, hoặc đột phá vào những khâu yếu, mặt yếu trong tháng; kiểm điểm kết quả lãnh đạo phải sát, đúng, thể hiện tính chiến đấu cao, phê bình nghiêm túc, rõ ràng. Thực hiện quy chế báo cáo theo phân cấp trước khi sinh hoạt: các đảng bộ cơ sở báo cáo với cơ quan chính trị Đoàn; đảng bộ bộ phận và các chi bộ báo cáo cơ quan chính trị, thường vụ đảng uỷ đơn vị để có sự phân công cấp uỷ dự và chỉ đạo sinh hoạt đảng. Nội dung sinh hoạt được thông báo trước tới từng đảng viên; ý kiến của đảng viên đều được chuẩn bị cụ thể vào sổ tu dưỡng, rèn luyện của cá nhân; phát huy dân chủ trong thảo luận, đề cao vai trò tự phê bình và phê bình của đảng viên và tham gia đóng góp ý kiến thiết thực vào xây dựng nghị quyết lãnh đạo của cấp uỷ, chi bộ; khắc phục có hiệu quả tình trạng nhất trí xuôi chiều, kém hiệu quả.

Bốn là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát đối với các cấp ủy đảng và đội ngũ CB,ĐV. Hằng năm, cấp ủy các cấp đều xây dựng kế hoạch kiểm tra, giám sát; xác định rõ nội dung, đối tượng, thời gian tiến hành; đồng thời, triển khai thực hiện một cách nghiêm túc, đúng quy định của Điều lệ Đảng và hướng dẫn của trên. Trong kiểm tra, giám sát, Đảng ủy xác định rõ yêu cầu: kết hợp chặt chẽ giữa kiểm tra, giám sát tập thể với kiểm tra, giám sát đảng viên là cấp uỷ viên, cán bộ chủ trì; kiểm tra thường xuyên với kiểm tra đột xuất, nhất là khi phát hiện đảng viên, tổ chức đảng có dấu hiệu vi phạm. Về đối tượng kiểm tra, giám sát, phải tập trung vào những cấp uỷ lãnh đạo đơn vị hoàn thành nhiệm vụ có mặt còn hạn chế; cán bộ chủ trì đơn vị, đảng viên có dấu hiệu vi phạm kỷ luật. Nội dung kiểm tra, giám sát hướng vào việc chấp hành nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt đảng, phẩm chất đạo đức, lối sống của cấp ủy viên, cán bộ chủ trì; chú trọng kiểm tra, giám sát những lĩnh vực nhạy cảm như: công tác quản lý xây dựng cơ bản, tài chính, xăng dầu; tỷ lệ kiểm tra, giám sát hằng năm đối với tổ chức đảng được xác định từ 30% trở lên; với đảng viên, từ 35% đến 40%.

Những năm tới, nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu của Đoàn sẽ có những bước phát triển mới, với yêu cầu ngày càng cao. Những kinh nghiệm trên sẽ được Đảng ủy Đoàn tiếp tục vận dụng vào quá trình thực hiện CVĐ gắn với xây dựng Đảng bộ TSVM, Đoàn vững mạnh toàn diện, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đặt ra trong giai đoạn mới.

Đại tá TRẦN VĂN VƯƠNG

Bí thư Đảng ủy, Chính ủy  Đoàn

 
Ý kiến bạn đọc (0)

Tự phê bình và phê bình trong Đảng theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Trong bản Di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, vấn đề xây dựng, chỉnh đốn Đảng, mà đặc biệt là tự phê bình và phê bình, được Người đề cập và xác định là việc làm trước tiên sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước giành thắng lợi. Những di huấn quan trọng này của Người vẫn vẹn nguyên giá trị, tiếp tục soi sáng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay.